Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Dependent-Arising of Cyclic Existence (pp 275-283)
Trích từ: Jeffrey HOPKINS. Meditation on Emptiness.
(Wisdom Publications, 1996)
Vòng Luân Hồi
Bản Lược đồ một vòng mười hai chi Duyên khởi, theo giáo pháp Đức Phật giảng trong Kinh Duyên sinh/Kinh Lúa nếp/Kinh Đạo cán / “Rice Seedling Sutra:
đời sống A (life A): chi 1, 2, 3a
những nguyên nhân đang phóng chiếu: chi 1, 2, 3a
(projecting causes)
1. vô minh (ignorance)
2. hành / hành nghiệp (action)
3. thức (consciousness)
3a. thức nguyên nhân (cause consciousness)
_________________
đời sống B (life B): chi 3b, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10
những hiệu quả được phóng chiếu: chi 3b, 4, 5, 6, 7
(projected effects)
những nguyên nhân đang hiện thể hoá: chi 8, 9, 10
(actualizing causes)
3b. thức hiệu quả (effect consciousness)
4. danh và sắc (name and form)
5. sáu xứ (sources)
6. xúc (contact)
7. thọ (feeling)
8. ái (attachment)
9. thủ (grasping)
10. hữu (existence)
_________________________
đời sống C (life C) : chi 11, 12
những hiệu quả được hiện thể hoá : chi 11, 12
(actualized effects)
11. sinh (birth)
12. già và chết (aging and death)
-------------------------
Trong bảng 53 pháp /hiện tượng của thứ lớp phiền não thì 12 pháp cuối bảng là 12 chi của duyên khởi của sinh tử luân hồi. Mười hai chi này được xem là lầm lỗi bởi vì chúng che lấp/chướng ngại con đường đi đến giải thoát. Chúng là:
1. vô minh: ignorance; Skt. avidya
2. hành/ hành nghiệp: action; Skt. samskarakarma
3. thức: consciousness; Skt. vijnana
a. thức nguyên nhân: cause consciousness
b. thức hiệu quả: effect consciousness
4. danh và sắc: name anh form; Skt. namarupa
5. sáu xứ: six sources; Skt. shadayatana
6. xúc: contact; Skt. sparsha
7. thọ: feeling; Skt. vedana
8. ái: attachment; Skt. trshna
9. thủ: grasping; Skt. upadana
10. hữu: existence; Skt. bhava
11. sinh: birth; Skt. jati
12. già và chết: aging and death; Skt. jaramarana
Vô minh không chỉ có nghĩa là phi-trí tuệ
(non-knowledge), nó cũng là một thức nghĩ tưởng cái đối lập của trí tuệ chính
xác (the opposite of correct knowledge). Vô minh ở đây là nhận thức sai lầm về
bản ngã là hiện hữu có tự tính và về các pháp/hiện tượng gồm cả tương tục của
bạn là những đối tượng được kiểm soát bởi một Tôi hiện hữu có tự tính (inherently existent
I).
Vô minh xem Tôi hiện hữu mệnh danh (the
nominally existent I) vốn là chỉ thuần được giả danh (merely designated) tùy
thuộc vào các uẩn thể chất và tinh thần, là một cái ngã hiện hữu có tự tính
(inherently existent self) và xem các uẩn chính chúng được đặt dưới sự kiểm
soát của cái ngã này. Như vậy thuốc giải chính yếu của vô minh là trí tuệ về
bản chất thật của Tôi chẳng có hiện hữu có tự tính (empty of
inherent existence).
Vô minh cũng có thể quy chiếu về sự che lấp về phương
diện thô các quan hệ của các hành nghiệp và các hiệu quả của chúng, như trong
trường hợp tiến hành một cách vô minh những lễ hiến tế có sát hại sinh linh để
đạt được giải thoát (making sacrifices in order to gain liberation), nhưng vì
nó là chi thứ nhất của 12 chi duyên khởi nên tất yếu là khái niệm về ngã của
các con người (ngã của mình/người) (a conception of a self of persons) làm sinh
khởi các chi tiếp theo.
Trong một vòng biệt thù của duyên khởi, chi thứ nhất áp
dụng chỉ riêng cho một thời kì che lấp/chướng ngại hoặc khái niệm sai lầm trong
một đời sống trước đây được sử dụng như là một chủ thể lí do động lực
(motivator) của một hành động/hành nghiệp biệt thù. Hành nghiệp đơn biệt hoàn
tất này, chi thứ nhì của mười hai, được gọi là con đường của hành nghiệp (=
nghiệp đạo) (a path of action) bởi vì nó phục vụ như một con đường tới tái sinh
trong một chuyển cư thấp kém (hữu tình địa ngục, ngạ quỷ, hoặc súc sinh) hoặc
một chuyển cư hạnh phúc (người, a tu la, trời).
Để cho một hành nghiệp là một nghiệp đạo đầy đủ thì cần
phải có các thành phần cần thiết: một ý định (intention) (tỉ dụ lòng mong muốn
giết một người), tâm niệm (thought) nhận diện đúng đối tượng, chuẩn bị cho sự
hoàn thành hành động, sự kết thúc thành công, và sự không đảo ngược ý định
trước khi hành động được hoàn tất (non-reversal of intention before the action
is completed). Hành động/hành nghiệp hoàn tất này thiết lập một năng lực ảnh
hưởng trên ‘thức nguyên nhân’ (a potency on the “cause consciousness”) hoặc
thức vào thời gian của hành nghiệp, nửa chi đầu của chi thứ ba.
Hành/hành nghiệp trong vai trò chi thứ hai luôn luôn chỉ
quy chiếu tới một một hành nghiệp bị nhuốm màu thiện hảo hoặc bất thiện trong
một đời sống trước kia, có thể là trong đời sống ngay trước đời sống này hoặc
bất cứ một đời sống trước nào đó (hành nghiệp = hành nghiệp quá khứ. ĐHP).
Căn cứ trên vô minh về phương diện bản chất của
mình/người, một nghiệp đạo dẫn tới một chuyển cư hạnh phúc được tích lũy.
Căn cứ trên vô minh về phương diện những hành nghiệp và
những hiệu quả của chúng, một nghiệp đạo dẫn đến một chuyển cư thấp kém thì
được tích lũy.
Hành nghiệp thiện hảo (nói trong trường hợp trước) phóng
chiếu hoặc thúc đẩy tái sinh (projecting or impelling a rebirth) làm người hoặc
trời của Cõi Dục, và hành nghiệp bất thiện (nói đến trong trường hợp sau) phóng
chiếu tái sinh trong một chuyển cư thấp kém làm một súc sinh, ngạ qủy hoặc một
hữu tình địa ngục.
Căn cứ vào vô minh về phương diện bản chất của con người
(mình/người), một hành nghiệp của thiền tịnh chỉ phóng chiếu, hoặc cung cấp
năng lực cho, một chuyển cư hạnh phúc trong một Cõi Sắc hoặc Cõi Vô Sắc; nó là
một hành nghiệp thiện hảo được gọi là ‘bất động’(‘unmoving’) bởi vì
hiệu quả của nó có thể tiến đến kết quả chỉ trong loại đời sống và phương
diện/mức độ mà nó được phóng chiếu, cái này tương ứng với loại thiền tịnh chỉ.
Một tỉ dụ của hành nghiệp bất động là một hành nghiệp của
thiền định trong tịnh chỉ thứ nhất phóng chiếu một hiệu quả nằm trong phương
diện thứ nhất của Cõi Sắc và nó sẽ chỉ thuần thục trong phương diện thứ nhất
của Cõi Sắc. Một tỉ dụ của một hành nghiệp chuyển động là một hành động, tỉ dụ
giết người, sự vụ này phóng chiếu một hiệu quả gồm trong một chuyển cư thấp kém
nhưng nó có thể không thực sự thuần thục trong một chuyển cư thấp kém, nó đi
tới kết quả trong đời sống con người là một hình dáng của đau khổ cõi người
(nghĩa là tuy giết người, nhưng vẫn có thể tái sinh trong cõi người, nhưng sẽ
sống trong đau khổ. ĐHP).
Như vậy, những hành nghiệp thiện và bất thiện là
những hành nghiệp đang ‘chuyển động’ bởi vì những hiệu quả
được phóng chiếu của chúng ( projected effects) và những hiệu quả được
hiện thể hoá (actualized effects) thì không nhất thiết thuộc về cùng
một loại của đời sống và phương diện ngay dầu chúng có thể là giống như nhau.
Tùy thuộc vào vô minh làm lí do động lực (motivational
ignorance) đứng trước và tạo nên chúng, những hành nghiệp thiện hảo và những
hành nghiệp thiền định dẫn đến tái sinh trong sinh tử luân hồi, tuy dẫu thế nào
vẫn trong một tình thế thuận lợi. Nói về “Đại luận giải về các Giai đoạn thứ tự
của Con Đường Tu Tập” (“Great Exposition of the Stages of the Path”) của
Dzong-ka-ba, bình giải của Pa-bong-ka nói, “Chi thứ nhì, hành nghiệp,
là sự diễn hiện của một hoạt động, do vô minh làm lí do động lực (motivated by
ignorance), sản sinh các uẩn tinh thần và thể chất của một tái sinh. Nó thì
giống như đang làm một công trình”. Phần nửa đầu của chi thứ ba, ‘thức
nguyên nhân’, quy chiếu duy vào thời điểm khi năng lực ảnh hưởng của hành
nghiệp ‘nhuộm màu’/ làm nhơ nhuốm (stains) thức hiện hữu vào thời
điểm hành nghiệp được hoàn tất.
Hai chi đầu và nửa chi, vô minh, hành, và thức
nguyên nhân, đều là những nguyên nhân đang phóng chiếu một sinh vị lai (xem
lược đồ ở phần mở đầu), thế nên, chúng được gọi là “duyên khởi vị lai” (future
dependent-arising). Cái chúng phóng chiếu là nửa chi và bốn chi tiếp theo, thức hiệu
quả, danh và sắc, sáu xứ, xúc, và thọ. Cái dẫn đầu nhóm
chi này, “thức hiệu quả” quy chiếu duy vào thời
điểm của thức tinh thần ngay sau khi bắc cầu khoảng cách từ đời trước đây tới
đời sống mới, đó là sinh vào tử cung (womb-birth) là thời điểm thứ nhất trong
tử cung. Kế đến, thời điểm kế tiếp, danh và sắc bắt đầu hoạt
động. “Danh” quy chiếu cho bốn uẩn phi-sắc -- thọ, tưởng, hành và thức—và “sắc”
quy chiếu cho uẩn của các hình dáng.
Một hữu tình ở trong trạng thái trung hữu giữa hai đời
sống có đủ sáu thức thêm vào đó cái tối thiểu năm yếu tố tinh thần luôn luôn có
mặt [five omnipresent mental factors = tâm sở hữu pháp biến hành: thọ
(feeling); tưởng (discrimination); tư (intention); xúc (contact); tác ý (mental
engagement). ĐHP] gồm cả thọ và tưởng. Cùng với tâm là những năng lực ảnh hưởng
(potency), đã được an lập bởi vô số các hành nghiệp, trong một trạng thái bất
hoạt (dormant state); đây là những cơ duyên biệt thù của các yếu tố hành nghiệp,
và như vậy bốn uẩn phi-sắc đều hiện diện trong trạng thái trung hữu. Cũng vậy
một hữu tình trong trạng thái trung hữu có một thân thể chất vi tế được gọi là “thân
không bị chướng ngại” (“unobstructed body’) bởi vì nó có thể đi xuyên
qua các tường vách, các núi non, và các thứ tương tự; như vậy, sắc uẩn (uẩn
hình dáng) thì cũng có mặt trong suốt sự chuyển cư.
Danh và sắc, chi thứ tư của duyên
khởi, quy chiếu về năm uẩn của đời sống mới ngay tức thời sau khi thụ thai. Ở
vào điểm đó có các thức tinh thần và thức thân. “Sắc” / “Hình dáng” quy chiếu
về hình dáng tròn (phôi), hình dáng chữ nhật (phôi thuôn dài) và các thứ (Trong
Cõi Vô Sắc “sắc” quy chiếu duy vào những hạt giống bất hoạt của sắc, chúng
không phải là sắc cũng không phải thức”).
Sáu xứ là các năng lực cảm
thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm ý/tinh thần. Xuyên qua sự phát triển của
sắc uẩn vào thời điểm đó là phôi thai (tinh dịch của người cha và máu của người
mẹ, được thức thâm nhập) và bốn uẩn “danh” (thọ, tưởng, hành và thức) bốn xứ
còn lại của sáu xứ -- các năng lực cảm thức của mắt, tai, mũi, và lưỡi bắt đầu
hiện khởi (Các năng lực cảm thức của thân và thức hiện hữu từ thời điểm thứ
nhất của phôi thai). Nếu một sinh là tức thời trong trạng thái
địa ngục hoặc cõi trời, các năng lực cảm thức hiện khởi với sự khởi sự của đời
sống mới, không giống như sự phát triển theo thứ tự như trong sinh từ
tử cung, từ trứng, hoặc từ hơi nóng và ẩm ướt.
Thuật ngữ “xứ” (“sources”) là chi thứ năm của
duyên khởi quy chiếu tới năm thời điểm chuyên biệt trong một sự phát triển của
một đời sống trong sinh tử luân hồi; thứ nhất là sự thành tựu năng lực cảm thức
của tâm (căn thức) và thân (căn thân), và thứ nhì xuyên tới thứ năm duyên hội
xảy ra vào lúc sản sinh ra bốn năng lực cảm thức khác (căn mắt, căn tai, căn mũi,
căn lưỡi) mà chúng tùy thuộc vào sự phát triển tuần tự của danh và sắc. Thế nên
“xứ” được nhận diện như chỉ có sáu năng lực cảm thức (six sense powers), mà
loại trừ sáu đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp). Sáu đối tượng
hoặc sáu ngoại xứ (external sources) luôn luôn có mặt và không cần được tạo ra
tùy thuộc vào danh và sắc bởi vì phôi thai có màu và hình thể, âm thanh (tỉ dụ,
nếu đánh), mùi, vị, mềm mại và các thứ cũng như các đối tượng có thể xúc chạm
và vô thường.
Chi thứ sáu, xúc, sinh khởi từ một tập hợp
của đối tượng, năng lực cảm thức, và thức, và có chức năng phân biệt các đối
tượng như khoái cảm (pleasant), không khoái cảm (unpleasant), và trung tính
(neutral). “Tập hợp” (aggregation) đây không quy chiếu về một thu tập đồng thời
(simultaneous collection), nhưng về một sản phẩm của thức bởi một năng lực cảm
thức và một đối tượng.
Chi thứ bảy, thọ, gồm có những cảm thọ của
khoái cảm, đau đớn, hoặc trung tính hoà hợp với sự phân biệt bởi xúc. Vì cảm
thọ được phân chia thành sáu loại theo điểm nhìn sáu loại xúc sản sinh bởi sáu
xứ, nó tạo ra sản phẩm thứ tự trong hoà hợp với sự sản sinh của mỗi xứ. Tuy
nhiên , “thọ” quy chiếu không riêng thời điểm thứ nhất của mỗi loại của 6 loại
cảm thọ nhưng cũng tới các thời điểm cảm thọ xuyên suốt cuộc đời và những thọ
này tác dụng như là các đối tượng của chi kế tiếp, ái.
Tóm lại, thức hiệu quả, danh và sắc, sáu xứ, xúc, và thọ đều
là những hiệu quả được phóng chiếu bởi vô minh, hành nghiệp, và thức
nguyên nhân, trong ý nghĩa nhóm sau (=vô minh, hành nghiệp, thức nguyên
nhân) làm cho chúng (= thức hiệu quả, danh và sắc, sáu xứ, xúc, và thọ) thích
hợp cho sự hiện thể hoá.
(In sum, effect consciousness, name and form, sources,
contact and feeling are effects projected by ignorance, action, and cause
consciousness in the sense that the latter make them suitable
for actualization).
Một hành nghiệp tùy thuộc vào vô minh phóng chiếu những
chi này xuyên qua nhuốm màu một năng lực ảnh hưởng trên thức nguyên nhân. Năng
lực ảnh hưởng này của một loại riêng biệt của đời sống thì tương tự như bản
phác họa của một bức tranh, các chi tiết của chúng được cung cấp bởi những hành
động khác, được gọi là những hành nghiệp đang hoàn tất (completing actions). Năng
lượng ảnh hưởng này được hiện thể hoá bởi ái, thủ, và hữu.
Chi thứ tám, ái, là lòng ham muốn không xa rời một
cảm thọ khoái cảm, và xa rời một cảm thọ đau đớn và mong một cảm thọ vẫn cứ
trung tính.
Chi thứ chín, thủ, một gia tăng của ái, gồm
có bốn loại
1. dục thủ: chỉ cho sự tham cầu mạnh mẽ đối với 5 cảnh rất
hấp dẫn; sắc, thanh, hương, vị và xúc
2. chấp thủ các tri kiến (kiến thủ): chỉ cho sự tham cầu
do ngưỡng mộ các tri kiến thấp kém sai lầm, nhưng không gồm các tri kiến xem
tập hợp vô thường của tâm và thân là thật tôi và thật của tôi.
3. chấp thủ đạo đức và các cách thức ứng xử (giới cấm
thủ): sự tham cầu do bám chặt vào các đạo đức thấp kém và cách thức ứng xử thấp
kém do tri kiến thấp kém (= tri kiến đạo đức phi Phật giáo. ĐHP)
4. chấp thủ về ngã (ngã ngữ thủ) do sự tham cầu bám chặt
mạnh mẽ vào (a) sự kiêu mạn về ngã và (b) tri kiến về các uẩn tâm và thân
(trong khi chúng vốn có bản chất vô thường) và tri kiến về một tập hợp các uẩn
xem là thật tôi và thật của tôi.
The ninth member, grasping, an increase of attachment, is
of four types:
1. desirous grasping – desire involving strong attachment
to the Desire Realm attributes of pleasant forms, sounds, odours, tastes, and
tangible objects
2. grasping for views – desire involving aspiration to
bad views, not including the view of the transitory collection of mind and body
as real I and mine
3. grasping for ethics and modes of conduct – desire
involving strong attachment to bad ethics and bad modes of conduct which are
associated with bad views
4. grasping for a self – desire involving strong
attachment to the pride of selfhood and the view of the mental and physical
aggregates which have the nature of transitoriness and of an aggregation as
real I and mine.
Ái và thủ nuôi dưỡng hoặc hiện thể hoá năng lực ảnh hưởng
biệt thù đó là nguyên nhân đang phóng chiếu của
đời sống kế tiếp và như vậy có thể duyên hội xảy ra vào bất kì thời gian nào
trong suốt đời sống. Tuy nhiên, vì những thời điểm như thế của ái và thủ thì
hữu hiệu nhất cận kề thời điểm chết, nên ái và thủ ở đây đa phần quy
chiếu những cơ duyên biệt thù cận kề thời điểm chết.
Hữu, chi thứ mười, là một trường hợp lấy tên
hiệu quả để gọi tên nguyên nhân. Bởi vì nó là năng lực ảnh hưởng an lập bởi chi
thứ nhì, hành / hành nghiệp, khi nó được nuôi dưỡng bởi ái và thủ
và được giao quyền phát triển đi vào đời sống kế tiếp. Vì hữu duyên hội xảy ra
vào thời điểm đứng trước ngay một hữu mới hoặc đời
sống mới (=sinh/tái sinh) là hiệu quả của nó, thế nên gọi tên chi thứ
mười ‘hữu’ là một giả danh của nó với tên của
hiệu quả của nó.
(The tenth member, existence, is a case of giving the
name of the effect to the cause. For it is the potency established by the
second member, action, when it has been thoroughly nourished by attachment and
grasping and has become empowered to develop into the next life. Since
‘existence’ occurs at the moment preceding the new existence or life which is
in its effect, calling the tenth member ‘existence’ is a designation of
it with the name of its effect).
Ái, thủ, và hữu là những nguyên nhân
hiện thể hóa năng lực ảnh hưởng được phóng chiếu bởi vô minh, hành, và
thức nguyên nhân. Năng hiện thể hoá (cái làm hiện thể hoá) là thủ,
được tạo nên bởi ái, và sở hiện thể hoá (cái được hiện thể
hoá) là sinh và già và chết. Xuyên qua thủ, năng lực
ảnh hưởng trước đây được an lập trong thức do bởi hành/hành nghiệp thì được
giao quyền trọn vẹn, trạng thái này được gọi tên là ‘hữu’
(Attachment, grasping, and existence are causes that
actualize the potency projected by ignorance, action, and cause consciousness. The
actualizer is grasping, which is caused by attachment, and birth and aging and
death are what are actualized. Through grasping, the potency previously
established in the consciousness by an action is fully empowered, this state
being called ‘existence’).
Liên hệ với 12 chi, vô minh, hành nghiệp, và thức nguyên
nhân xảy ra trong một đời trước (former life).
Thức hiệu quả, danh và sắc, sáu xứ, xúc, thọ, ái, thủ, và
hữu duyên hội xảy ra trong đời sống hiện tại.
Sinh và già và chết xảy ra trong đời sống tương lai.
Đối với sản phẩm của đời này, duy chỉ vô minh, hành
nghiệp, và thức nguyên nhân được trình hiện rõ ràng đầy đủ. Đối với sản phẩm
của đời sống tương lai duy chỉ ái, thủ, và hữu được trình hiện rõ ràng đầy đủ. Tuy
nhiên mỗi sinh có luôn cả ba nguyên nhân đang phóng chiếu và ba nguyên nhân
đang hiện thể hoá. Những nguyên nhân biệt thù được nhấn mạnh cho mỗi sinh trong
hai sinh là để nhận diện sự hiện hữu của tất cả chúng cho tất cả sinh.
Những hiệu quả được hiện thể hoá là sinh, đó
là năm uẩn tinh thần và thể chất ngay sau khi chuyển cư tới một đời sống mới,
vàgià và chết. Già quy chiếu cho tiến trình thay đổi bắt đầu từ thời
điểm thứ nhì của đời sống mới và áp dụng xuyên suốt cho tới chết. Chết là sự
chấm dứt của tương tục của một loại tương tự các uẩn tinh thần và thể chất. Già
và chết được đặt chung vào một chi bởi vì có những trường hợp chết ngay tức
thời sau khi tái sinh, chẳng có già.
Trong cách thức này một vòng mười hai chi duyên khởi được
hoàn tất trong ba đời sống. Thức hiệu quả, danh và sắc,
sáu xứ, xúc, thọ, ái, thủ, và hữu của đời sống này không ở trong cùng một vòng
của duyên khởi trong trạng thái sinh, già và chết của đời sống này. Sinh và già
và chết của đời sống này đều là kết quả của các chi đang hiện thể hoá của đời
sống ngay trước đời sống này. Trong cách này, hai vòng của duyên khởi đang
duyên hội xảy ra một cách đồng thời. Một tương tự, những hành nghiệp do vô minh
làm lí do động lực trong đời này đều là mỗi khởi đầu những vòng mới khác của
duyên khởi.
Một lợi ích của sự thiền quán duyên khởi là sự tạo lập
cảm thức khốn khổ. Xuyên qua sự lí hội thông hiểu rằng đời sống thì được tạo
lập bởi chất nuôi dưỡng – xuyên qua ái và thủ -- của một năng lực ảnh hưởng
thiết lập bởi một hành nghiệp do vô minh làm lí do động lực, bạn có thể suy ra
sự hiện hữu của những đời sống quá khứ và tương lai. Xuyên qua điều này, bạn
thấy rằng vô số những năng lực ảnh hưởng được an lập trong tâm và sẵn sàng để
hiện thể hoá.
Sự vô thường và sự bất ổn của đời sống này thì hiển
nhiên, và các cơ duyên để giao quyền cho một năng lực ảnh hưởng khác tạo lập
một đời sống mới có thể rất khốn khổ đều luôn luôn hiện diện. (Ai
cho kén chọn, vàng thau tại mình. Nguyễn Du 1765-1820).
(Through this , one sees that innumerable potencies have
been established in the mind and are ready for actualization. The impermanence
and precariousness of this life is obvious, and the conditions for empowering
another potency to create a new life that might be very miserable are
ever-present. )
Khi bạn biết rằng tai biến sắp trút vào bạn, bạn sẽ hiểu
biết vị trí của bạn, nỗ lực tìm kiếm cách tháo gỡ bạn ra khỏi tình thế đó. Những
phiền não gây ra những vòng duyên khởi sẽ được nhận diện như là những kẻ thù,
và bạn sẽ tìm kiếm các phương tiện vượt qua chúng.
Sau khi một hành giả nhận diện sự khốn khổ trong chính tương
tục của mình, hành giả biết xuyên qua sự mở rộng suy luận rằng những hữu tình
khác đều đang chịu đựng những khốn khổ giống như nhau. Đúng như hành giả mong
ước giải thoát chính mình cách tuyệt khốn khổ, thế nên hành giả phát triển ước
nguyện giải thoát tất cả hữu tình do bởi sự thân cận của chúng với hành giả qua
suốt tương tục của những đời sống.
Trong đường lối này đại bi được lưu xuất, và với đại bi
như một lí do động lực, bạn sẽ nỗ lực lớn lao tìm kiếm phương pháp chinh phục
vô minh, ái, và thủ mà chúng giờ đây được nhận diện như là những kẻ thù của tất
cả hữu tình. Lợi ích của nghiên cứu và thật chứng duyên khởi là cuối cùng thành
tựu Phật Quả.
____________________________________________-
Trung
Luận, chương XXVI
Quán
mười hai chi của Duyên khởi
Bản
dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản dịch Việt căn cứ trên 5 bản dịch:
(1) Bản dịch Trung Luận Phạn- Anh của
Giáo Sư K. K. Inada (1970, reprinted 1993).
(2) Bản dịch Trung Luận Phạn – Anh của
Giáo Sư Nancy McCagney (1997).
(3) Bản dịch Tạng- Anh, trích từ The Dalai
Lama. The Middle Way. Faith grounded in Reason. Translated by Thupten
Jinpa. 2009).
(4) Bản dịch Tạng-Anh, trích từ RJE
Tsong Khapa. Ocean of Reasoning. Translated by Geshe Ngawang Samten and Jay.
L. Garfield (2006).
(5) bản dịch Hán Việt, trích từ Trung
Luận. Thanh Mục thích. Ngài La Thập dịch Hán. Thích Thiện Siêu dịch Việt. In
năm 2000)
_______________________________
Tụng 1.
Do
vô minh che lấp,
chúng
sinh tạo ba hành,
nên
theo ba hành nghiệp,
vào
luân hồi sáu cõi.
Tụng 2
Ba
hành nghiệp quá khứ,
duyên
thức đi sáu cõi.
Ở
nơi thức an lập,
danh
và sắc tăng trưởng.
Tụng 3
Danh
và sắc tăng trưởng,
làm
duyên sinh sáu xứ.
Có
sáu xứ làm duyên,
nên
sáu xúc sinh khởi.
Tụng 4
Mắt
làm duyên cho sắc,
và
thấy sắc trong tâm;
cũng
vậy, thức làm duyên,
danh
và sắc sinh khởi.
Tụng 5
Khi
mắt, sắc và thức,
hội
tụ gọi là xúc.
Có
sáu xúc làm duyên,
thế
nên thọ sinh khởi.
Tụng 6
Thọ
làm duyên, ái sinh
theo
đối tượng của thọ.
Ái
làm duyên cho thủ,
bốn
loại thủ hiện diện.
Tụng 7
Khi
có thủ: có hữu
của
kẻ thủ sinh khởi.
Không
thủ: sẽ giải thoát
vì
sẽ không có hữu.
Tụng 8
Hữu
này là năm uẩn.
Từ
hữu nên có sinh.
Già
và chết, và sầu,
bi,
khổ, và vân vân,
Tụng 9
và
cộng thêm ưu, não:
chúng
đều đến từ sinh.
Những
gì sinh khởi là
khổ
gắn vào năm uẩn.
Tụng 10
Gốc
sinh tử: hành nghiệp.
Kẻ
vô minh: tác giả.
Kẻ
trí thấy pháp tính
và
không là tác giả.
Tụng 11
Khi
vô minh diệt tận,
hành
nghiệp không sinh khởi.
Vô
minh diệt do tuệ
và
thiền Lí duyên khởi.
Tụng 12.
Chi
vô minh này diệt,
nên
chi sau cũng diệt.
mỗi
chi làm sao sinh?
Nên
khổ năm uẩn diệt.
_______________________________
Phụ Bản: Bổn Vô = Chân Như
Đại sư Tăng Triệu (384 -
414) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:
“Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không,
Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.
Để vạch ra tông chỉ chánh pháp là căn bản của bổn Luận,
hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt
bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô, chẳng phải có ý làm thành vô.
(có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì
Bổn Vô này nó vượt ngoài cái có và không tương đối. Thích Duy Lực).
Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có,
tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là Duyên Hội.
Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân
duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là Tánh Không, vì pháp thể là
chơn như biến hiện nên gọi là Pháp Tánh.
Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không
có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là Thật Tướng.
Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật
tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên
nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà
sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa
thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay
hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là Tánh
Không, bởi vì tánh không nên gọi Pháp Tánh, pháp tánh chân thực
như thế nên gọi là Thật Tướng, thật tướng vốn không có tự thể,
chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô. ”
(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, in
trong Chư Kinh Tập Yếu, trang 470 - 471).
Chú thích về Bản Vô = Chân Như: trích từ Phật quang đại
từ điển, Thích Quảng Độ dịch, xb 2000.
Chân Như: Sanskrit: bhuta-tathata hoặc tathata.
Chỉ bản thể chân thực tràn khắpvũ trụ; là nguồn gốc của
hết thảy muôn vật.
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế,
Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất
tâm, Bất tư nghị giới.
Trong sách Phật Hán dịch ở thời kì đầu dịch là Bản vô. Chân,
chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi.
_____________________________________
Chú thích
Kính giới thiệu:
Kinh Duyên Sinh. Hoà Thượng Thích Tâm Châu dịch
http://old. thuvienhoasen. org/tamchau-kinhduyensinh. htm
____________________________________
1. Kinh Trung Bộ nói về lý tính Duyên khởi:
Cái này có, nên cái kia có;
Cái này sinh, nên cái kia sinh;
Cái này không có, nên cái kia không có;
Cái này chấm dứt, nên cái kia chấm dứt.
( Majjhima Nikaya II, 32 :
This being, that becomes;
from the arising of this, that arises;
this not becoming, that does not become;
from the ceasing of this, that ceases)
_____________________________________
2. Kinh Đại-thừa nói về lý tính duyên sinh:
Salistambasutra (Sanskrit)
(Xá-Lê-Sa-Đảm-Ma kinh) = Kinh Duyên-Sinh (=Phật thuyết
Đại-thừa Đạo-cán kinh).
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt [Saigon 1957; in
lại trong: Chư Kinh Tập Yếu Tập I, Thích-Tâm-Châu, Toronto, Canada, 2004, gồm
21 bản kinh ngắn]
Đạo-cán nghĩa là lúa nếp. Đức Phật nhân trông thấy cánh
đồng lúa nếp Ngài nói ra kinh này.
“ …Đại Bồ-tát Di-Lặc đáp lại Cụ Thọ
Xá-Lỵ-Tử rằng :
Nay Phật, Pháp Vương, Chánh-Biến-Tri bảo các
vị Tỳ-khưu : ‘Nếu ai thấy được Nhân-duyên , tức là người ấy
thấy được Pháp; nếu ai thấy được Pháp tức là người ấy thấy được Phật’, vậy
trong này thời cái gì là Nhân-duyên ? Nói là Nhân-duyên, thời : “đây có nên kia
có, đây sinh nên kia sinh”.
Như : Vô-minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức, Thức
duyên cho Danh-sắc, Danh-sắc duyên cho Lục-nhập, Lục-nhập duyên cho Xúc, Xúc
duyên cho Thụ, Thụ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên
cho Sinh, Sinh duyên cho Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh khởi được. Như
thế, là chỉ sinh-khởi sự kết-tụ những khổ đau lớn-lao , thuần-nhất, cùng cực
vậy.
Cũng trong này,Vô-minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên
Thức diệt, Thức diệt nên Danh-sắc diệt, Danh-sắc diệt nên Lục-nhập diệt,
Lục-nhập diệt nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thụ diệt, Thụ diệt nên Ái diệt, Ái
diệt nên Thủ diệt, Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Lão-tử, sầu, thán, khổ,
ưu, não, cũng diệt được. Như thế là chỉ diệt sự kết-tự những khổ đau lớn-lao,
thuần-nhất, cùng cực là được. Đó là Đức Thế-Tôn nói ra pháp Nhân–duyên vậy.
_____________________________________
3. Duyên khởi, Tính không, Trung đạo
Trung luận XXIV
18. Cái gì do duyên khởi
Ta nói là tính không
Tính không là giả danh
Chính nó là trung đạo
18. That which is dependent origination
Is explained to be emptiness
That, being dependent designation
Is itself the middle way.
( Trích từ Ocean of Reasoning , trang 503)
Ngài Long Thọ giảng trong Hồi tránh luận
(Vigrahavyavartani):
71. Tôi kính lễ Phật vô thượng, và
giảng pháp tối thượng rằng
Tính không, duyên khởi và
Trung đạo cùng một nghĩa.
71. I prostrate to the Buddha who is unparalleled, and
Who has given the supreme teaching that
Emptiness, dependent origination and
The middle path have the same meaning.
(Tsong Khapa. Ocean of Reasoning. trang 505)
______________________________________________
4. Duyên khởi là gì?
Ngài Nguyệt Xứng trong “ Bản diễn giải Bốn trăm bài tụng
của Thánh Thiên Đề bà” / “Commentary on Aryadeva’s Four Hundred ” viết
<< Hỏi: Ngài đề nghị học thuyết gì vậy?
Trả lời: Tôi đề nghị học thuyết duyên khởi.
Hỏi: Vậy thì, ý nghĩa của duyên khởi là gì?
Trả lời: Duyên khởi có nghĩa là chẳng có hiện hữu có tự
tính. Nó có nghĩa là sự sinh khởi của những hiệu quả mà chúng có một bản chất
giống như bản chất của những huyễn tượng, những ảo ảnh sóng nắng, những phản
chiếu, những thành phố huyễn thuật của những kẻ sống bằng mùi hương (càn thát
bà), những hoá hiện, và những chiêm bao. Nó nghĩa là tính không và vô ngã. ”
(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. p. 674)>>
_________________________________________________
5. Ngài Tsong Khapa giảng
< Làm thế nào để diễn dịch rằng duyên khởi cách
tuyệt với tám cực đoan (diệt, sinh,…) ( free from eight extremes).
Trong chương XXVI, hai tiếp cận với cuộc đời được phân
biệt rõ: vướng mắc rối bời trong sinh tử tương tục xuyên qua vô minh và giải
thoát chính mình cách tuyệt với sinh tử tương tục xuyên qua xoá bỏ vô minh.
Thế nên niết bàn và sinh tử tương tục, theo thứ tự, hiện
hữu trong tính đức thấy hoặc không thấy như thị tính.
Bảy mươi bài tụng về tính không (Sunyatasaptati), tụng
64, ngài Long Thọ nói:
“Tuyên bố khẳng định sự-sự vật-vật sinh khởi do các nhân
và các duyên
trong trạng thái thật
là cái mà đạo sư gọi “vô minh”
Mười hai chi duyên khởi phát sinh từ đó”. (64)
To posit things arisen through causes and conditions
As real
Is what the teacher calls “ ignorance”
The twelve limbs arise from that. (64)
Và trong “Bảo hành vương chính luận” (Ratnavali) :
Cũng giống như thế khi mê lầm
chấp thủ thế giới giống như ảo ảnh sóng nắng này
trong trạng thái hoặc hiện hữu hoặc không hiện hữu
Nếu mê lầm, kẻ đó sẽ không đạt giải thoát. (I:56)
(trang 34-35) >
____________________________________________
Chú thích 6
Kính mời độc giả đọc trên Thuvienhoasen. org và
Hoagiacngo. com
Chú thích cuối
Kính mời độc giả đọc trên Thuvienhoasen. org và
Hoagiacngo. com
No comments:
Post a Comment