DELOG DAWA DROLMA
(Nguyên
tác: DELOG: Journey to Realms Beyond Death
Delog
Dawa Drolma) – Xuất bản năm 1995
Richard Barron dịch sang Anh ngữ từ tiếng Tây Tạng
dưới sự hướng dẫn của Đức Tôn Quý Chagdud Tulku
Rinpoche
Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa
NỘI DUNG
Dẫn nhập của Chagdud Tulku
1. Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ: Cõi Thuần Tịnh của Đức
Padmasambhava
2. Những quán
chiếu trong Tấm gương Pha lê: Sáu Cõi Bất Tịnh
3. Núi Potala: Cõi thuần tịnh của Đức
Avalokiteshvara
4. Yulokod:Cõi Thuần tịnh của Đức Tara
5. Cầu Thang đưa tới Giải thoát: Tóm lược những hậu
quả của đức hạnh và ác hạnh
DẪN
NHẬP
Khi còn là một đứa bé ở Tây Tạng, thỉnh thoảng tôi
tìm thấy mẹ tôi, Delog Dawa Drolma, được vây quanh bởi những thính giả đang lắng
nghe hết sức chăm chú khi bà nói về những cuộc du hành của mình tới các cõi giới
khác. Khuôn mặt bà sáng ngời khi đề cập tới các bổn tôn trong các cõi thanh tịnh;
những giọt nước mắt tuôn rơi khi bà tả lại những khốn khổ của chúng sinh trong
địa ngục và các ngạ quỷ (preta), hay các sinh linh đau khổ. Bà nói về sự gặp gỡ
những thân quyến đã chết của những người nào đó, và bà tiếp âm từ người chết tới
người sống những mối bận tâm về những công việc không ngừng dứt (có thể là những
đồng tiền hay châu báu được chôn dấu mà không thể xác định vị trí) hoặc những
van nài khẩn thiết xin được cầu nguyện hoặc cử hành các buổi lễ. Bà cũng đem về
lời dạy tâm linh của những đạo sư (lama) cao cấp đã ra đi từ thế giới này và
các đạo sư ở bờ bên đây của cái chết đã đáp lại nó bằng sự cung kính sâu xa.
Mẹ tôi được tôn kính trên khắp đất nước Tây Tạng bởi
các năng lực siêu phàm như một đạo sư, nhưng bà nổi tiếng hơn vì là một delog
(phiên âm theo Anh ngữ là DAY-loak), người đã vượt qua ngưỡng cửa của sự chết
và trở về kể lại chuyện đó. Điều bà thuật lại không phải là một kinh nghiệm cận
tử hão huyền hay nhất thời. Suốt năm ngày, bà nằm lạnh ngắt, ngưng thở và không
có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống, trong khi tâm thức bà di chuyển tự do tới
các cõi giới khác, luôn luôn được vị thiên nữ trí huệ Tara Trắng hộ tống. Bà thực
hiện cuộc du hành của mình như một delog phù hợp với các giáo huấn đã nhận từ Đức
Tara trong các linh kiến, nhưng đi nghịch lại ước muốn của các đạo sư của bà,
các ngài nài xin bà đừng làm một việc mạo hiểm như thế.
Đặc biệt là bà, một thiếu nữ mười sáu tuổi, có nhiều
xác quyết trong sự thiền định khiến bà trổi vượt hơn các vị đạo sư hết sức uyên
thâm và lớn tuổi hơn bà. Tuy thế, bản thân bà được công nhận là một hóa thân của
Đức Tara Trắng, một năng lực mạnh mẽ của tâm giác ngộ vì sự trường thọ và giải
thoát của chúng sinh. Suốt thời thơ ấu, Dawa Drolma đã biểu lộ một lòng bi mẫn
sâu xa. Không có người hành khất nào tới lều của chúng tôi mà phải ra đi không
có quà tặng trên tay – gia đình tôi phải cất dấu những món quý giá kẻo bà đem
cho mất.
Căn lều bằng nỉ đen của gia đình chúng tôi có thể chứa
bốn trăm người trong suốt những buổi lễ lớn. Dawa Drolma được tôn kính khi được
mời ngồi trên một cái ngai cùng với các lạt ma cao cấp khác, gồm cả bốn người
chú của bà là những vị nổi tiếng khắp miền đông Tây Tạng. Bản thân bà là người
cầu toàn trong việc cử hành nghi lễ. Vài năm trước tôi đã gặp một nhà sư, ông
nhớ lại sự giận dữ của bà khi ông thổi quá tệ chiếc kangling (kèn lễ) của mình.
Sự hiện diện của bà đem lại sự cẩn trọng trong từng bước nỗ lực thực hành lẫn sự
nhận ra rằng bản tánh nền tảng của những bước này là giác tánh không cần dụng
công.
Những giấc mơ và linh kiến của bà là những khám phá
của sự chứng ngộ và chúng giúp cho kinh nghiệp delog của bà được rõ ràng đáng
tin cậy trong các giáo huấn. Những e ngại của các đạo sư khẩn nài bà đừng thực
hiện một cuộc du hành như thế, nhưng đúng ra là ăn chay, dùng thuốc và cử hành
các buổi lễ không phải là không có căn cứ. Tuy nhiên – sau khi bà mất và đi tới
cõi thuần tịnh của Đức Padmasambhava, bà gặp người chú quá cố của bà là đạo sư
tôn kính Khakyod Wangpo, Ngài cảnh báo là bà sẽ gặp nguy hiểm khi ở lại và bảo
bà nên trở về cõi người để làm lợi ích chúng sinh.
Sau này, khi bà du hành qua bardo, hay trạng thái
trung gian giữa các chết và sự tái sinh, và tới các cõi địa ngụ và ngạ quỷ, một
hóa thân của nữ bổn tôn Vajravarahi tỏ vẻ
nghi ngờ việc Dawa Drolma có thể đem lại nhiều lợi lạc. “Con gái của ta, có thể
con cần trở về cõi người. Nhưng… khi đã tái sinh làm một phụ nữ, con sẽ có chút
uy quyền… Sẽ khó làm cho chúng sinh trong thời đại suy hoại này tin rằng những
tường thuật của con là chân thực”.
Đức Tara Trắng không đồng ý với tuyên bố này, Ngài
nói: “Cô ta là một nữ anh hùng với tâm hồn dũng cảm” và nói thêm rằng bà đừng
nên nghe lời những ai cố gắng gây trở ngại cho bà. “Nếu cô ta trở về thế giới
con người, cô ấy có thể nói rõ những chọn lựa đạo đức trong việc chấp nhận những
thiện hạnh và từ bỏ các ác hạnh. Cô ấy có thể xoay chuyển tâm thức của chúng
sinh hữu tình”.
Quả thực, kinh nghiệp trực tiếp về những cõi khác đã
khiến cho mẹ tôi có một quyền lực âm linh vĩ đại khi bà giảng về hành vi đúng đắn
và nhân quả nghiệp báo. Không ai nghi ngờ điều bà nói, không chỉ vì những đại đạo
sư như Tromge Trungpa đã chứng kiến tử thi của bà trở lại cuộc đời, mà cũng bởi
bà đã biết chỗ cất dấu những đồng tiền và những hành động của người đã khuất trước
khi họ chết – là những sự việc mà bà không thể biết nếu không được trực tiếp
cho biết bởi những người bà gặp khi là một delog. Sau này trong đời bà, một
trong những người cộng tác nhiệt thành nhất của những công trình của bà là một
thương gia Tây Tạng, ông ta từng là một phi hành giả cứng đầu trong vùng cho tới
khi mẹ tôi gởi tới ông thông tin về số tiền chôn dấu của người chị quá cố của
ông.
Ở đây, tường thuật của Dewa Drolma thì sống động như
tường thuật của một du khách miêu tả một đất nước mà người ấy đã viếng thăm,
tuy thế tường thuật của bà thực sự là một hành trình của tâm thức xuyên qua những
sự phô diễn thanh tịnh và bất tịnh của tâm. Nó bắt đầu khi như Đức Tara chỉ dạy,
“Tôi để tâm tôi an trụ trong một tâm thái khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh
nghiệm một trạng thái hoàn toàn trong sáng… Tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng
thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất thông thường của nó. Bởi giác
tánh đó không bị ngăn che, tôi như thể nghe được tất cả những âm thanh và tiếng
nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận”.
Khi sự tham luyến, sân hận và si mê thông thường của
sự nhị nguyên đối tượng chủ thể hoàn toàn biến mất, ta kinh nghiệm giác tánh
không bị tạo tác, trần trụi - tuyệt đối, không hai, siêu vượt ý niệm, tánh
Không tràn đầy mọi phẩm tính thuần tịnh và năng lực để hiển lộ như hình tướng bất
khả phân với tánh Không. Đây là Phật tánh, bị ngăn che và không được nhận ra
trong tâm chúng sinh, nhưng hoàn toàn được hiển lộ nơi những bậc giác ngộ.
Để làm lợi ích chúng sinh, các bậc giác ngộ hóa hiện
một cách tự nhiên các cõi của sự xuất hiện thuần tịnh, chẳng hạn như Núi Huy
Hoàng Màu-Đồng Đỏ của Đức Padmasambhava, Núi Potala (Phổ Đà) của Đức
Avalokiteshvara và Yulokod của Đức Tara. Những hành giả đã tịnh hóa dòng tâm thức
và những người đã tích tập công đức rộng lớn qua thiện hạnh của họ có thể kinh
nghiệm các cõi thuần tịnh trong các linh kiến, trong các giấc mơ hoặc như mẹ
tôi đã làm, như một delog. Tường thuật của bà hết sức đặc biệt trong khoa địa
lý vũ trụ của nó và đầy đủ chi tiết trong sự diễn tả, tuy thế chắc chắn là những
cõi giới mà bà thăm viếng là sự phô diễn tròn đầy của bản tánh tâm, được kinh
nghiệm khi sự thiền định xuyên thủng những giới hạn của tri giác bình phàm.
Các cõi thuần tình là sự phô diễn của tâm, nhưng vì
thế nó cũng là trạng trái bardo và sáu nơi đến của sự tái sinh. Sự khác biệt nằm
ở chỗ các cõi thuần tịnh là sự phô diễn của giác tánh, trong khi sáu cõi và
bardo là sự phô diễn của mê lầm và sự phóng chiếu của những độc chất của tâm.
Cõi địa ngục là một phóng chiếu của sự thù ghét, sân hận và ác hạnh sát sinh;
cõi ngạ quỷ, là một phóng chiếu của sự tham lam và thèm muốn; cõi súc sinh là một
phóng chiếu của sự ngu si; cõi bán thần là phóng chiếu của đức hạnh bị ô nhiễm
bởi sự ganh tị; cõi trời là một phóng chiếu của đức hạnh bị hư hỏng bởi sự kiêu
ngạo; cõi người là một phóng chiếu của một sự hòa trộn tất cả năm độc kết hợp với
đức hạnh tối thiểu để ngăn chặn việc tái sinh nơi các cõi thấp. Sự tái sinh làm
người may mắn được đặt nền trên một số lượng đức hạnh rộng lớn và giúp cho ta
thực hành một con đường tâm linh. Mẹ tôi thường nói: “Cho dù cuộc sống làm người
của con có khó khăn tới đâu, nhưng những khó khăn ở đây không thể so sánh với
những khốn khổ trong các cõi thấp”.
Loài người và súc sinh cùng sống trong thế giới này
và cùng có khuynh hướng nhìn mọi sự như cái gì hết sức vững chắc, thật có. Khi
cái chết chia cách tâm và thân, và lột trần sự kiên cố tương đối của sắc tướng,
tâm thức trần trụi đi vào trạng thái bardo sau – cái chết. Nếu không sớm đạt được
giải thoát suốt trong sự phô diễn thuần tịnh của cái gọi là bardo chân tánh của
thực tại, thì tâm thức của ta bị đẩy vào bardo trở thành, sau giai đoạn này nó
sẽ tái sinh ở một trong sáu cõi của sự kinh nghiệm phù hợp với nghiệp của ta.
Như thể trong một giấc mơ hay ảo giác, chúng sinh
trôi lềnh bềnh trong và ngoài tri giác của Dawa Drolma như những bông tuyết.
Trong chốc lát bà gặp gỡ một người quen đang chịu đựng những đau khổ ghê gớm nhất
của địa ngục hay ngạ quỷ trải qua những thống khổ của sự mất mát cực độ; giây
lát kế tiếp bà gặp một người đức hạnh trên đường đi tới một cõi thuần tịnh hay
một chúng sinh trong cõi trời. Thỉnh thoảng, bà thấy toàn bộ đoàn người trong địa
ngục hay chúng sinh trong bardo đi tới các cõi thuần tịnh, được dẫn dắt bởi một
đạo sư hay hành giả vĩ đại là những người bằng năng lực của những ước nguyện vị
tha của mình đã tới cứu giúp chúng sinh. Điều này thực sự có ý nghĩa khi ta cầu
nguyện “xin hãy lưới vét tận đáy sâu của vòng luân hồi sinh tử và giải thoát
chúng sinh”.
Dawa Drolma đối mặt với Yama Dharmaraja, Thần Chết
và cùng với Đức Tara, bà đã tán thán ông ta bằng một bài ca chứng ngộ:
Nếu nhận ra được, thì chính là đây - bổn tâm của ta;
Nếu không nhận ra, đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.
Thực ra, đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Phổ
Hiền (Samantabhadra):
Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.
Mặc dầu sự thật là, trong ý nghĩa tuyệt đối thì các
cõi luân hồi sinh tử có bản tánh trống không, chỉ là những phóng chiếu của những
mê lầm của tâm thức, nhưng trên bình diện tương đối, nỗi khổ mà chúng sinh phải
chịu đựng thì không thể phủ nhận được. Khi Dharmaraja cùng các thuộc hạ của ông
liên tục đưa ra nhiều bằng chứng thì không có sự nói dối hay giả đò nào làm giảm
bớt được nghiệp quả của ta. Cuộc đời của ta trôi qua trước mắt với từng hành vi
tốt và xấu được vạch rõ; những nghiệp quả phát sinh một cách tương ứng. Những
mô tả ớn lạnh của Dawa Drolma về những hậu quả khủng khiếp của việc sát sinh và
hãm hại người khác cảnh báo thật rõ ràng để ta tránh làm những hành động như thế.
Mặt khác, những mô tả quyến rũ của bà về những cõi thuần tịnh gây hứng khởi cho
ta để thực hành thiền định bổn tôn và để chứng ngộ bản tánh thuần tịnh của những
phẩm tính của tâm.
Sau cái chết, ngay cả khi năng lực của nghiệp quả xô
đẩy tâm thức ta tái sanh trong vòng luân hồi, nhưng nếu ta đã từng thực hành đủ
tốt đẹp trước đó để có sự tỉnh giác trong việc khẩn cầu bổn tôn thiền định của
ta với đức tin, thì ta tức thời tái sinh trong cõi thuần tịnh của vị bổn tôn
đó.
Sau kinh nghiệm delog của mình, Dewa Drolma làm một
cuộc hành hương tới Lhasa, ở đó với phối ngẫu của bà là một lạt ma cao cấp, bà
mang thai tôi. Bà sống với ông bà tôi cho tới khi tôi lên bốn, sau đó di chuyển
tới Tanp’hel Gonpa, một tu viện xa khoảng một tuần trên lưng ngựa. Một ngôi nhà
với quang cảnh đẹp đẽ được xây cao trên sườn núi và bà sống ở đó, được kính trọng
như một đạo sư và một dakini, một hiện thân nữ của trí tuệ và hoạt động giác ngộ.
Sau đó, bà sanh em gái tôi, T’hrinlay Wangmo, một đứa trẻ phi thường mà cuối
cùng được công nhận là hóa thân của một yogini trí tuệ. Em tôi và tôi, cả hai đều
hoang dã và ngang ngạnh, và đôi khi tôi vẫn còn cảm thấy hối tiếc về những rắc
rối mà tôi đã gây nên cho mẹ tôi. Bà không kềm chế việc sử dụng kỷ luật nghiêm
khắc với tôi, nhưng bà cũng quả quyết rằng nếu tôi thực hành Pháp mạnh mẽ và với
động cơ thanh tịnh thì tôi sẽ đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Những lời khuyên
dạy của bà gia hộ sâu xa cho con đường của tôi.
Bà mất năm 1941, không lâu sau khi sanh một bé trai,
nó cũng chết hai năm sau. Khi mất, mẹ tôi khoảng giữa tuổi ba mươi, còn tôi thì
mười một. Xác bà vẫn ở tư thế thiền định trong vài ngày, sau đó gục xuống, cho
thấy tâm thức đã thoát đi. Bà được hỏa táng trên mái nhà bà. Các cầu vồng xuất
hiện và năm con kên kên, mà trong Phật Giáo Kim Cương thừa là những con vật tượng
trưng cho nhãn kiến siêu việt rằng bà đã trở về những cõi thuần tịnh, nhưng tôi
cũng không nghi ngờ là bà cũng đã trở lại các cõi địa ngục và ngạ quỷ để cứu
thoát bất kỳ ai có liên hệ với bà. Với lòng bi mẫn, bà tuyệt đối không sợ hãi.
Tôi rời Tây Tạng năm 1959, ngay trước cuộc củng cố
xâm lược tàn bạo của Trung Quốc. Năm 1982, sau gần ba thập kỷ không có tin tức
của gia đình, bất ngờ tôi nhận được một lá thư ngắn của người em gái, trong đó
kể rằng cô có một bản sao duy nhất tường thuật delog của mẹ tôi. Điều này giống
như một cái móc từ Tây Tạng thả xuống California, tuy thế tôi không thể chụp được
nó mãi cho tới năm năm sau khi lập trường chính trị của Trung Quốc đã có phần mềm
dẻo hơn. Sau cùng khi tôi về thăm T’hrinlay Wangmo, cô bảo tôi rằng bản văn đã
từng bị tịch thu nhưng cô biết được ai lưu giữ nó. Trong những nămg tháng khủng
khiếp của cuộc Cách Mạng Văn Hóa, khi những kinh điển bị người Trung Quốc dùng
làm giấy vệ sinh, cô chẳng thể làm được gì, nhưng ngay khi cảm thấy an toàn, cô
đã biếu một số tiền rất lớn để có được bản tường thuật. Chỉ có vài trang bị mất.
Tôi không muốn giữ bản gốc của em tôi, nhưng người
Trung Quốc ở Szechuan thủ phủ của Chengdu không cho phép tôi sao chụp nó. Hiểu
rằng tôi phải lén đưa nó ra ngoài, tôi có đem sách Tây Tạng từ Hoa Kỳ về và đã
liệt kê chúng trong tờ khai quan thuế. Tôi ghi thêm bản tường thuật delog vào
danh mục sách của tôi không bị phiền nhiễu khi quá cảnh ở phi trường. Vài năm
sau, tôi trở về Tây Tạng để cho em gái tôi một bản sao. Tôi vẫn còn giữ bản gốc,
giờ đây nó đã hơn sáu mươi tuổi, được một người sao chép ghi lại bằng chữ viết
tay thật đẹp khi Dawa Drolma thuật lại tiểu sử của bà.
Có những tường thuật delog khác – một trong số đó là
tường thuật khá nổi tiếng của nữ hành giả Delog Ling Zha Chhodron. Thư viện tác
phẩm và văn khố Tây Tạng ở Dharamsala có ít nhất là một tá cuốn. Các delog thì
thường là phụ nữ; một số xuất hiện như những cư sĩ bình thường, nhưng chính
kinh nghiệm là một dấu hiệu của sự chứng ngộ thiền định vĩ đại, vì thế thực ra
các ngài không thể là những người bình thường. Những tường thuật của các ngài
làm tăng thêm lòng tin của mọi người nơi giáo lý của các đạo sư về các cõi hiện
hữu vô hình.
Tôi không rõ có những tường thuật nào khác từng được
dịch ra các ngôn ngữ Tây phương không. Tôi thật may mắn có mối liên hệ với dịch
giả tuyệt hảo Richard Barron (Chokyi Nyima) và chủ bút rất có năng lực Mary
Racine, họ đã cho ra đời bản dịch Anh ngữ tường thuật của Dawa Drolma. Richard
Barron chịu trách nhiệm về các chú thích cuối mỗi chương. Mặc dù các chương được
viết với ba cõi thuần tịnh ở phần đầu rồi
tới cõi bất tịnh nằm trong chương thứ tư, nhưng nội dung của bản văn dường như
chỉ ra rằng cuộc du hành không được biểu lộ ra theo thứ tự khi xuất bản ở đây:
Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ, các cõi bất tịnh, núi Potal và yulokod. Chương cuối
cùng, được con trai tôi là Jigme Tromge Rinpoche đem từ miền đông Tây Tạng tới
Hoa Kỳ năm 1994, là một tóm lược mà chính yếu là những kinh nghiệm của Dawa
Drolma trong các cõi bất tịnh. Để bản Anh ngữ dễ đọc, hơn là một bản dịch sát
nghĩa và chính xác, bản văn là một dịch phẩm bằng văn xuôi có phần uyển chuyển
của nguyên bản Tây Tạng được viết bằng thể thơ. Sự phiên âm ngữ âm học của cấu
trúc ngôn ngữ Tây Tạng được dựa trên một hệ thống mà nhà xuất bản Padma sử dụng.
Kinh nghiệm delog thì phi thường, kỳ diệu, ngay cả
trong phạm vi bí truyền của các phái Kim Cương thừa của Phật Giáo Tây Tạng. Tuy
thế, tường thuật của Delog Dawa Drolma có năng lực và sự gần gũi của kinh nghiệm
trực tiếp và tôi tin rằng những ai đọc nó sẽ nhận ra rằng các hiện tượng của
các cõi giới thì tương ứng với những khía cạnh kinh nghiệm của bổn tâm họ. Cầu
mong những nhắn ngủ của bà truyền cảm hứng cho sự thành tựu tâm linh tối cao; cầu
mong những nhắn nhủ ấy đưa dẫn bất kỳ ai đọc chúng tới những tịnh thổ của các Đấng
Chiến Thắng.
CHAGDUD
TULKU
1-NÚI
HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG-ĐỎ
CÕI
THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA
Con đường mà tôi để cập tới là một lối đi hẹp, khó
khăn và đóng kín.
Vì thế những ai khao khát giải thoát có thể đi vào
con đường dẫn tới giải thoát đó.
Tôi sẽ rộng mở chút ít trên vòng hoa lời dạy chữa
lành này liên quan tới động lực cao cả hơn[1].
Những tường thuật được kể lại ở đây liên quan tới
tôi, Dawa Drolma, con gái của Jigmed T’hrogyal thuộc bộ tộc Tromge, một đạo sư
sống trong vùng Washul T’hron. Từ khi còn là một đức trẻ, tôi được phú bẩm một
bản tánh bi mẫn, đức tin không định kiến và thị kiến thanh tịnh. Tình thương của
tôi thật mãnh liệt đối với mọi hành khất và những người kém may mắn hơn tôi và
tôi hiến thân mình để cúng dường và bố thí.
Tôi thực hiện nhiều cuộc nhập thất trì tụng mãnh liệt,
đã hoàn tất chẳng hạn như hàng trăm ngàn lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng[2]. Sau
này tôi được cảm hứng bởi Dakini Dorje Yudron[3] và những bổn tôn khác của giác
tánh nguyên sơ, cũng như bởi một Bồ Tát (bodhisattva) đệ bát địa[4], Ngài mang
thân tướng của một vị trời địa phương, đại nyen siêu phàm ở phương bắc[5]. Mặc
dù các Ngài không hoàn toàn thuật lại quá khứ, hiện tại và tương lai cho tôi
nghe, dù sao thì tôi cũng đã nhận một số lượng phi thường những tiên tri liên
quan tới thời đại của chúng ta.
Có một dịp, ba vị tulku[6], cũng như ngài Jatrul[7]
và những vị khác du hành xuống thung lũng để tham dự một nghi lễ trọng thể, một
sự kiện hàng năm được tổ chức trong một cái lều lớn bằng nỉ. Vào buổi chiều tối,
trước khi các ngài giải tán, tôi có một linh kiến mà nửa là một kinh nghiệm thiền
định, nửa là một giấc mộng. Trong linh kiến này, ba yêu ma có tên là “các chị
em gãy bể samaya”[8] từ hướng cao nguyên Lashar tới, lấy cắp sinh lực của chúng
sinh trên ba mức độ thuộc sự hiện hữu có điều kiện[9]. Bà Chị chính cầm một lá
cờ bằng lụa đen và một sợi thòng lọng; mặc dù nhiều lần bà ta cố cột chúng vào
eo lưng tôi, nhưng vị bổn tôn nghiệp của tôi là Đức Tara tôn quý đã xuất hiện
trong một biểu lộ trẻ trung, thân màu trắng chói lọi và đặt tôi trong một chiếc
lều được bảo vệ chặt chẽ khiến sợi thòng lọng không thể đụng tới tôi được[10].
Sau này, tôi có một thị kiến về người nào đó lại gần
và đánh vào xương vai tôi bằng một cuộn len màu có kích thước cỡ một hòn đá nhỏ,
sau đó biến mất. Đây là một kinh nghiệm hết sức xấu, nhưng một lần nữa, Đức
Tara lại can thiệp và nói: “Bởi sự việc này, ta phải đi Ấn Độ để lấy một ít thuốc
kanadava từ kho tàng bí mật của các dakini ở Orgyan[11]. Ta sẽ không trở về
trong bốn ngày. Trong thời gian này, con nên mặc y phục của người nào đó như
anh Palchhen của con mà thân anh ta được các vị trời bảo vệ che chở và hãy giữ
gìn đừng để tâm con lang thang vơ vẩn. Vào tối thứ tư, hãy dâng cúng tám mươi
torma để giải trừ các chướng ngại[12]. Sau đó, như một dấu hiệu là ta đã lấy được
thuốc, ta sẽ đến như mặt trời chói lọi, không bị mây che hay một cơn gió hung tợn
vây bủa”.
Trong bốn ngày này, tôi đau đớn ghê gớm; cơn đau dữ
dội đến nỗi tôi không thể buộc khăn quanh người. Vào tối ngày thứ tư, vị đạo sư
hóa thân Tromge Trungpa cử hành một nghi lễ cúng dường tám mươi torma, và ba chị
em cắt đứt sinh lực hài lòng với các vật cúng dường, đã quay về trụ xứ riêng của
họ. Một mùi hương dễ chịu ngập đầy căn lều bằng nỉ, từ đỉnh lều tới đáy, cho thấy
là thuốc đã về tới. Tôi đã có thể thưởng thức một chất dị thường có hương vị rất
tuyệt vời, và ngay lập tức, cơn đau của tôi tan biến. Tôi thực sự kinh nghiệm sự
kiện kỳ diệu này, là điều mà bất kỳ ai cũng có thể tự mình chứng thực.
Một lúc khác, bất ngờ tôi bị đánh gục như thể giờ chết
của tôi chắc chắn đã tới. Đạo sư gốc quý báu[13] và chỗ nương tựa duy nhất của
tôi, bậc quyền uy từ bi là kho tàng của lòng bi mẫn, đã cử hành một buổi lễ
tràn đầy oai lực để triệu hồi sinh lực trường thọ của tôi. Các vị đạo sư của
dòng Sakya[14] lừng lẫy cử hành những sự cầu nguyện, những nghi lễ ban sự che
chở, lễ quy y của Đức Hevajra vinh quang[15] và những buổi lễ khác. Sau cùng,
những cơn đau mạnh mẽ suy giảm và những cơn đau vi tế hơn nguôi dịu thành một
kinh nghiệm về đại lạc tánh Không.
Sau đó, ngài Khakyod Wangpo, đấng thống lĩnh của một
trăm bộ Phật, kho tàng vô song và duy nhất của lòng bi mẫn, Đức Vajrasattva[16]
toàn thiện vĩ đại trong thực tế, đã dẫn dắt tôi trong một linh kiến với sắc tướng
huyễn mộng của giác tánh nguyên sơ của Ngài. Như một người nói chuyện với người
khác, tôi đã trò chuyện cùng các dakini của giác tánh nguyên sơ không có thân
thể vật lý và đáp lại những câu hỏi của tôi, họ cho tôi những câu trả lời rõ
ràng, khiến cho những chướng ngại đối với thọ mạng của cô gái[17] này được giải
trừ và tôi đã có thể làm lợi cho chúng sinh theo khả năng của riêng tôi. Tôi đã
được tiên tri rằng tôi phải thực hiện các cuộc nhập thất trì tụng về ba vị bổn
tôn – Amitayus, Samyak và Vajrakilaya – để viếng thăm nhiều cõi thuần tịnh Hóa
thân[18].
Đức Tromge Kundun Rinpoche đã cử hành các lễ quán đảnh
về ba bổn tôn này từ các giáo lý của đại terton Laykyi Dorje[19]. Những cách
nhìn quen thuộc của tôi về các sự việc được nhẹ nhàng quét sạch và tôi được đưa
dẫn trực tiếp vào bản tánh tinh túy vô điều kiện của giác tánh nội tại, không
chút lầm lạc. Tôi đốn nhập vào giác tánh nội tại trong toàn bộ sự trần trụi của
nó, rồi thì những ngôn từ kim cương bí mật tuôn ra không ngưng nghỉ[20]. Thiên
nữ tôn kính, Đức Tara Trắng cao quý, ban cho tôi một linh kiến và nhiều kinh
nghiệm thiền định của sự hợp nhất không thể nghĩ bàn của đại lạc và tánh Không
đã ló rạng trong dòng tâm thức tôi.
Đó là năm đầu tiên của chu kỳ sáu mươi năm cũ, năm Mộc
Tý[21]. Trong tuần trăng khuyết tháng tám, vào ngày hai mươi ba âm lịch xảy ra
một sự kiện quan trọng kỷ niệm sự tụ hội của các dakini, một thời gian tốt lành
cho sự truyền bá được cách-tân giáo lý quý báu của con đường mật chú[22]. Vào
ngày này, chúng tôi lại thăm Chhogtrul Rinpoche. Cô gái này nằng nặc hỏi Ngài về
những giấc mơ và kinh nghiệm thiền định trong đời trước của cô, cũng như những
kinh nghiệm gần đây và mới vừa xảy ra. Ngài có vẻ hân hoan đến độ đáng kinh ngạc
và hết sức hài lòng bởi những tường thuật này.
Tôi nói với Ngài: “Theo một tiên tri mà Đức Tara Trắng
nói về cô gái này, con sẽ trải qua khoảng sáu hay bảy ngày trong một trạng thái
kiên cố thiền định sâu xa, như thể ở trong một sự hôn mê hay một trạng thái giống
như chết”.
Trên thực tế, Chohogtrul Rinpoche và Tromge Trungpa
đều bảo tôi: “Tuyệt đối không cần tới loại đồn đại này. Sau khi trải qua tối đa
một ngày trong nghi lễ chay nyungnay, con cảm thấy đói và khát[23]. Không tốt
hơn sao khi ở trong một lều thiền định tĩnh lặng tự nhiên, không suy nghĩ nhiều,
nghỉ ngơi thoải mái trong những điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và
thành tựu[24] và hoàn tất một ít sự trì trụng thần chú?”
“Nhưng”, tôi trả lời “an trụ bảy ngày trong một tình
trạng như thế là một điều lợi lạc và rất cần thiết cho việc chữa trị bệnh tật của
con”. Tôi cứ quấy rầy các ngài mãi khi hỏi:
“Con có nên ở trong phòng khóa cửa, không dùng chút
thực phẩm và nước uống nào không?”
Tromge Kundun Rinpoche nói: “Hoàn toàn không nên làm
gì cả! nếu muốn bớt bệnh, con nên cử hành những nghi thức và lễ trường thọ rộng
lớn và hãy nhận những lễ quán đảnh Vajrakilaya cùng nghi lễ tắm gội của bổn tôn
Bhurkakuta[25]. Con cũng nên chuộc mạng những con vật sắp bị làm thịt. Nếu con
ước muốn hoàn thiện hạnh phúc của chúng sinh, hãy thực hành một nghi thức chẳng
hạn như nghi thức dẫn dắt chúng sinh ở sáu cõi[26] được tìm thấy trong giáo
khóa Sự Giải thoát Tự nhiên của Ý hướng Giác ngộ của các bổn tôn hòa bình và phẫn
nộ[27] cùng khẩn cầu nguyên lý của lòng bi mẫn siêu việt bằng cách trì tụng thần
chú mani[28] cùng với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện”.
Trước phương cách này và nhiều cách khác mà Ngài buộc
tôi phải làm, và mặc dù rất tốt khi tuân theo lời khuyên của Ngài, tôi lặp lại
rằng theo ý kiến của tôi thì không có gì để làm ngoài những gì tôi đã mô tả, và
tôi quyết định thực hiện phù hợp, không thể trì hoãn thêm nữa.
Vào ngày hai mươi lăm âm lịch, tôi báo cho mọi người
xung quanh về tình trạng của tôi. Vào buổi tối, thời điểm của năng lực[29], khi
các dakini tụ hội, bảy lạt ma và tulku khá đặc biệt (lạt ma toàn trí Tromge
Kundun Ringpoche là vị lỗi lạc nhất trong số họ) được nhiều đệ tử và các thị giả
tháp tùng. Cô gái này cũng nhập vào đám đông. Khi tôi ở đó, tâm tôi trở nên
minh mẫn hơn bao giờ hết và những kinh nghiệm thiền định và các trạng thái chứng
ngộ hết sức đặc biệt xuất hiện trong dòng tâm thức của tôi. Trong tầm nghe của
Tromge Kundun Rinpoche tôi tụng đọc những bản văn nghi lễ theo thứ tự thích hợp
của chúng mà tôi chưa bao giờ học, Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu, cũng
như sự dâng cúng tiệc và nghi thức thực hiện[30]. Tâm tôi cực kỳ hỉ lạc và tôi
cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc như đêm ấy.
Sau khi đám đông giải tán, tôi ở lại một lúc trong sự
hiện diện của đạo sư quý báu của tôi. Sử dụng nhiều phương tiện cả nhẹ nhàng đến
phẫn nộ, Rinpoche lập đi lập lại: “Con gái ta, ta xin con đừng tiến hành kế hoạch
này”. Tuy nhiên, yêu cầu đó không ích lợi gì và vì thế sau cùng Ngài nói” “Bởi
con đã quyết định làm thế, hãy giữ những lời này trong tâm và đừng quên chúng.
Từ nay trở về sau, đừng ô nhiễm nẻo đường mê muội, bất tịnh và tăm tối như con
đã làm trong quá khứ. Hãy an trụ mà không dùng phương tiện hay nỗ lực nào trong
bản tánh chân thật của tâm con, đúng như nó xuất hiện và tự nó xuất hiện. Càng
nhiều càng tốt trong mức độ có thể, hãy phát triển lòng tin và cái nhìn thanh tịnh
về các đạo sư và bổn tôn được chọn lựa của con, cũng như lòng từ bi đối với mọi
chúng sinh, họ đã từng là những bậc cha và mẹ của con”[31]
Cùng với lời nói đó, Ngài tỏ vẻ cung kính tôi bằng
cách đích thân cho tôi một đĩa đầy những khẩu phần đặc biệt của tiệc cúng dường.
Ngài ngâm tụng: “Cầu mong con được đặt dưới sự bảo trợ của các đạo sư, Tam Bảo
và Đức Orgyan vĩ đại[32]. Cho tới khi con thành tựu sự Giác ngộ, cầu mong mọi
chướng ngại và nghịch duyên được làm yên dịu. Cầu mong ý hướng giác ngộ không bị
tạo tác của hai phương diện của Bộ Đề tâm (bodhicitta)[33], bản tánh nền tảng của
thực tại được nảy sinh trong dòng tâm thức của con. Cầu mong con được thiên nữ
tôn kính, Đức Tara cao quý dẫn dắt trên con đường và nhờ đó hãy thành tựu lợi
ích không thể nghĩ bàn cho chúng sinh”.
Khi Ngài nói những lời này, lòng tin của tôi phát
triển thật mãnh liệt khiến tôi có cảm tưởng như thể mình bật khóc. Tôi thực hiện
ba lễ lạy và quay trở về ẩn thất của mình.
Sau đó tôi nói với Tulku Tromge Trungpa: “Con sẽ như
thể thực sự chết trong khoảng năm ngày. Trong thời gian đó không ai trong những
nhà sư hay đệ tử được ra vào phòng con hoặc đi lại nhiều ngoài cửa; họ không
nên nói luôn miệng hay gây những tiếng động kinh suất, quấy rối. Xin dọn dẹp mọi
thực phẩm ở trước mặt con, đừng để lại nhiều hơn bảy hạt lúa mạch[34]. Để tịnh
hóa những khuynh hướng quen thuộc, sự che chướng thai tạng[35] và những ô nhiểm
của thân thể con, xin rửa sạch con bằng nước nghệ đã được hiến cúng qua thực
hành Vijaya[36]. Vào lúc đó, để cung cấp một điều kiện tốt lạnh đặc biệt, phải
có sự hiện diện của một cô gái tên là Drolma”. (Nhưng cuối cùng mọi việc hóa ra
tự nhiên suông sẻ bởi một người đàn bà đức hạnh có giới nguyện samaya trong sạch
tên là Tsult’hrim Drolma đã trở thành bạn đồng hành của tôi)[37].
Tôi nói tiếp: “Để xác định rõ ràng con thuộc loại bộ
Phật nào và để giải trừ các chướng ngại, xin quấn một miếng vài màu xanh da trời
quanh đầu con[38]. Cho tới khi con trở lại cuộc đời, Kuzhab Rinpoche[39] sẽ cử
hành sự cúng dường bánh cho năm chị ở Lhaman Tsering[40]. Tromge Trungpa sẽ cử
hành một trăm tiệc cúng dường của Nữ Hoàng Cực Lạc trong giáo khóa Những Mệnh lệnh
của Bà Mẹ Phối ngẫu. Để giải trừ những chướng ngại cho các linh kiến của con,
các đệ tử và thị giả nên trì tụng càng nhiều càng tốt Lời khẩn nguyện Bảy-Dòng,
bài cầu nguyện Giải trừ Chướng ngại trên Con Đường và các thần chú vajra guru
(Kim Cương Đạo sư) và Tara[41]. Để bảo vệ con, hãy cài chốt cửa phòng con bằng
một khóa móc và có người mặc đồ xanh dương. Và để ngăn chặn và trấn áp thế lực
của loài quỷ khát máu, xin niêm phong miếng vải với sáp ong được đóng dấu bằng
dấu triện ngược đầu[42].
“Bây giờ cần một bộ quần áo sạch để thay đổi, nó
không làm bằng da thú vật hay da sống[43]. Nếu con không chết thực mà quay trở
lại cõi đời, con sẽ phải súc miệng; vì thế, con sẽ phải cần tới một cái bình đựng
đầy nước mưa sạch hứng từ một trận mưa thuốc của các nhà thấu thị, nó xảy ra nhờ
năng lực của những sự ban phước và đại nguyện của Đức Phật Dược Sư
Bhaishajyaguru[44].
“Nếu bất kỳ ai hỏi Dawa Drolma đang làm gì khi hành
động như này, thì đừng nói điều gì đặc biệt, tốt hay xấu; chỉ cho biết chắc chắn
con không sống cũng không chết. Trong năm ngày, xin hãy mời anh Palchhen của
con, anh ấy đang sống với gia đình con và những người bà con dưới thung lũng và
nói với anh ấy rằng “Em gái anh đang ở trong một trạng thái không sống cũng
không chết. Hãy đích thân tới thăm cô ấy”. Mặc dù đòi hỏi chút ít nhọc nhằn
nhưng mọi sự con vừa sắp xếp thi hết sức quan trọng, vì thế xin Ngài tiến hành
cho”.
Tulku Tromge Trungpa và các thị giả của Ngài hứa sẽ
tôn trọng bức thư hướng dẫn mà tôi đã đưa và trung thành với lời cam kết của họ,
và như thế tôi nằm xuống giường để nghỉ ngơi.
Cô gái này nói: “Hãy để tâm mi an trụ trong trạng
thái tự nhiên nơi đó nó phát triển một cách nội tại, không bị bất kỳ niệm tưởng
lan man nào làm gián đoạn”. Phù hợp với yêu cầu này, tôi để tâm tôi an trụ.
Trong một tâm trạng khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái
hoàn toàn trong sáng. Đây không phải là trạng thái tiềm ẩn kunzhi, là sự vắng mặt
đơn thuần các niệm tưởng lan man[45]. Cũng không phải là việc tôi hoàn toàn mê
đắm trong những cảm xúc của lạc, sự trong sáng và sự tỉnh giác vô niệm[46]. Và
tôi không đơn thuần rơi vào một cuộc nô đùa vô tận của sự vô minh. Đúng hơn,
tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất
thông thường của nó[47]. Bởi giác tánh đó không bị ngăn che, tôi như thể nghe
được tất cả âm thanh và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận.
Vào sáng ngày hai mươi sáu âm lịch, khi mặt trời nhú
lên ở chân trời, tôi nhìn thấy Đức Tôn kính và cao quý Tara thực sự hiện diện
trước mặt tôi giữa một khối ánh sáng cầu vồng, thân Ngài có sắc trắng như một
bình pha lê. Bà cầm một mũi tên có trang trí những giải ruy băng mà bà dùng để
ban phước cho tôi[48].
Từ hướng núi Huy Hoàng trên tiều lục địa Chamara, một
cầu vồng gồm năm dải ánh sáng màu song song rọi vào thiền phòng của tôi[49]. Dọc
theo con đường này xuất hiện một toán hộ tống gồm bốn phụ nữ trẻ mặc y phục bằng
lụa và tô điểm các đồ trang sức bằng xương. Vị dakini ở phương đông, Thiên nữ
có Năng lực trên sự Trường thọ, sắc trắng sáng ngời và cầm một mũi tên trang
trí dải ruy băng lụa và một cái bình. Dakini ở phương nam là Akyang Tara, dakini
ở phương tây là Tara Rồng màu Lam Ngọc, và dakini ở phương bắc là Thiên nữ
phương Bắc.
Các ngài đặt tôi trong một ổ rơm có trải lụa sặc sỡ
trang trí hoa văn đỏ và trắng. Ngay lập tức, các dakini ở bốn tầng cấp và tôi
cùng nhau hát tụng Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng và lớn tiếng trì tụng liên tục các
thần chú vajra guru và mani. Tâm tôi trải rộng rộng tới một trạng thái cực kỳ hỉ
lạc, bản tánh cốt tủy của sự hoàn toàn trong sáng trong đó tôi không thể bám
níu vào bất kỳ điều gì dù tốt hay xấu theo nghĩa thông thường, giống như pháp
giới vô sanh không có gì trong nó và của chính nó, nhưng với một sự chói lọi tự
nhiên tuyệt đối không bị ngăn che. Kinh nghiệm thiền định hài hòa và tự phát
này xuất hiện như sự phô diễn không thể nghĩ bàn của một đám mây mạn đà la, phạm
vi hoàn toàn rộng lớn của kinh nghiệm thuần tịnh[50].
Sau đó tôi cảm giác leo lên càng lúc càng cao tới một
khoảng không gian khá rõ ràng, còn nhanh hơn một con chim kên kên đuôi trắng
hoang dã bay vút lên không trung. Khi kinh nghiệm bi tráng này mở trải ra như một
ảo ảnh biến dịch, bất ngờ tôi thấy mình ở một nơi mà tôi không nhận ra là ở
đâu. Giữa một cánh đồng rộng lớn, bao la và siêu phàm đến nỗi dường như bầu trời
đổ sập xuống trái đất, một tảng đá có bề mặt lớn đứng sừng sững có hình dạng
như một trái tim. Ở mọi phương và những rặng núi trông như những vũ khí chĩa
lên bầu trời và đỏ như thể có lấm tấm máu. Trên bầu trời xuất hiện một vòm ánh
sáng cầu vồng năm màu. Những chim công trống, chim hét và chim cu cu vút lên,
bay chuyền thật vui thích. Không gian tràn ngập mùi hương ngọt ngào có năng lực
chuyển hóa những tri giác của ta. Khắp mặt đất phủ đầy các loài hoa gồm năm màu
thật đáng yêu – trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. Tôi kinh nghiệm cảnh
giới này như một nơi chốn thực sự.
Tôi cũng nhìn thất một ngọn núi rất đẹp, xanh thẳm
như một viên ngọc bích. Tâm tôi tràn đầy đức tin và thị kiến thanh tịnh không
tưởng tượng nổi. Tôi lớn tiếng lập đi lập lại những lời cầu nguyện của pháp
guru yoga, Lời Khẩn Nguyện Bảy-Dòng và một lời khẩn cầu mà trước đây chính Đức
Tara đã nói với tôi và tôi thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường mạn đà la.
Nơi đây là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa
Chamara. Khoảng nửa đường lên tới mặt tảng đá, trên một vùng bằng phẳng rộng lớn
bao la là lâu đài Liên Hoa Quang rộng mênh mông đứng sừng sững[51]. Cung điện,
một hóa thân của giác tánh của Đức Padmasambhava, dc làm bằng năm loại châu
báu, một mạn đà la thành tựu tự-sinh và tự nhiên. Từ ngoài vào, bên trong sáng
sủa rực rỡ và từ trong nhìn ra, ta có thể thấy rất tường tận. Được kết bằng những
cầu vồng, lâu đài có bốn mặt, bốn cổng và các sân, trong đó có hơn một ngàn
cung điện khác. Trong những cung điện này là tập hội các vidyadhara[52] cũng
như những daka và dakini.
Cô gái này tới cổng phía đông. Ở đó tôi gặp bốn người
đàn bà, họ mặc cho tôi một áo choàng lụa sặc sỡ, chiếu sáng như một cầu vồng. Rồi
họ ra đi, nhưng tôi không rõ họ đi đâu.
Người đàn bà gác cổng phía đông thách thức tôi: “Cô
là ai?”
Tôi trả lời: “Tôi là Dawa Drolma, một con gái của bộ
tộc Tromge trong thế giới con người”.
“Vì sao cô tới cõi này?”
Tôi trả lời khiêm tốn: “Nhằm mục đích bảo đảm hạnh
phúc của chúng sinh, tôi xin được hội kiến Đức Orgyan Tsokey Dorje[53] và nhiều
vidyadhava, daka và dakini trên Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trong tiểu lục địa
Chamar”.
Vị dakini trả lời:
Cầu mong cô được Đức Vajravarahi ban phước[54].
Cầu mong các nghịch cảnh và chướng ngại cho sự trường
thọ của cô được giải trừ.
Cầu mong cô đạt được quán đảnh kim cương bất diệt.
Và cầu mong cô bảo đảm được hạnh phúc của vô lượng
chúng sinh.
Sau đó tôi nhìn thấy cảnh tượng phi thường của cổng
phía đông kỳ diệu, một cửa làm bằng pha lê. Trên đó, trong hình chạm khắc lờ mờ
là hình ảnh của một tathagata[55] và những chữ đi kèm đem lại sự giải thoát nhờ
cái thấy. Bên trái và phải cửa là những báu vật có hình những con rồng màu lam
ngọc uốn mình hình xoắn ốc theo chiều kim đồng hồ và ngậm nhiều viên ngọc.
Thình lình vị dakini mở cửa bằng một chìa khóa pha
lê thạch anh trắng, có bề dài khoảng một bàn tay và đánh dấu bằng những chữ tượng
trưng tự-tạo hình, kỳ diệu và huyền bí. Tôi đi bộ vào trong và tìm thấy một cầu
thang dài làm bằng châu báu. Tôi trèo lên và trong một căn phòng rộng mênh
mông, tôi tìm thấy ngài Jampa Migyur ngồi trên một cái ngai nhỏ[56]. Ngài mặc một
áo choàng không tay bằng lụa trắng và tô điểm với nhiều vật trang sức quý báu,
tóc Ngài kết lại thành một cái búi. Tay trái Ngài đang lần một mala bằng pha lê
trắng, mỗi một trong 108 hột có kích thước khoảng ngón tay cái của ta[57]. Quanh Ngài là đoàn tùy tùng gồm vài trăm dakin ni mặc áo choàng lụa trắng, đang
cử hành một buổi tiệc vui vẻ. Các thiên nữ kim cương thuộc sự hoạt động mặc áo
choàng xanh dương cúng dường những phần đặc biệt của bữa tiệc trong bốn phương
chính trên bầu trời.
Từ hàng sau của tập hội, cô gái này thực hiện ba lễ
lạy và cầu nguyện với những ước nguyện cao quý khi xuất hiện trong tâm. Đến gần
vị lạt ma, tôi dâng lời sám hối, tự tịnh hóa bằng cách tụng thần chú một trăm
âm[58] và cử hành mạn đà la vũ trụ ba mươi bảy điểm[59]. Một dakini ở bên phải
vị lạt ma là điều tra kỹ lưỡng quá khứ của tôi. Để trả lời bà, tôi nói năng thẳng
thắn nhưng khiêm tốn. Vị lạt ma có vẻ hết sức hài lòng. Tôi tham dự vào buổi lễ
tiệc.
Rồi tôi được một bà mặc y phục xanh dương đưa ra
ngoài và dẫn tới lâu đài rộng mênh mông khác. Một người có mặt ở đây đang tắm
cho một dakini của mộ bộ tộc thuộc thảo nguyên thấp ở miền đông Tây Tạng[60].
Tôi cũng nhận một nghi lễ tắm rửa. Ngự trên một chiếc ngai cao ngất ở giữa
chúng tôi, trên một tấm nệm cao bằng lụa đỏ trông thật đặc biệt là ngọn đèn soi
sáng các sutra và tantra[61], vương miện của mười triệu vidyadhara, đạo sư vô
song, bậc thông thái và thành tựu, bậc toàn trí Jamyang Khyentsei Wangpo[62].
Thân tướng chói ngời của Ngài trông thật lôi cuối và trẻ trung; dường như khoảng
mười sáu tuổi. Ngài mặc ba chiếc y nghi lễ và đầu đội chiến nón tượng trưng cho
ba sự tích tập kinh điển[63]. Tay Ngài cầm chày kim cương và chuông[64]. Ngài
được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng hơn một trăm daka và yogini.
Như trước đó, tôi đảnh lễ, cúng dường và cử hành lễ
dâng cúng mạn đà la vũ trụ. Tôi dâng lên Ngài một đoạn khăn lụa trắng[65] toàn
mỹ để xin được diện kiến và thực hiện những sự khẩn cầu ước nguyện khi tôi có
thể. Vị lạt ma dường như có một tánh khí rất khó khăn và cứng cỏi; Ngài không
nói một tiếng nào và cố ý tránh nhìn tôi.
Tôi ra đi và tới lâu đài rộng mênh mông khác. Người
gác cửa là một cô gái không thể quá mười lăm tuổi. Mặc dù tôi không nhận ra cô,
cô ta tỏ ra rất vui thích đối với tôi như cha mẹ bộc lộ khi gặp con cái họ. Bên
trong lâu đài, ngồi trên một cái ghế thấp chất đầy những đệm lót bằng lụa xanh
là một người đàn bà tên là Yul-lha, một dakini vùng Derge, là một hóa thân của
bổn tôn Vajravarahi[66]. Tóc bà được búi lên bằng sáu dải ruy băng màu xanh da
trời, bà cầm một bản văn giáo huấn tâm linh nhỏ. Bà đang tụng những vần kệ gốc
của Trạng thái Trung ấm sau Cái Chết[67]. Có khoảng mười sáu dakini trong đoàn
tùy tùng của bà. Tôi đảnh lễ và cúng dường hương trầm được pha chế từ gỗ đàn
hương trắng Ấn Độ. Tôi được ban thức ăn khô với các gia vị làm từ năm thứ cam lồ.
Sau cùng tôi nói về các sự kiện trong cõi người. Bà
tiếp tục: “Con sẽ tìm thấy bốn cầu thang trong một sảnh đường, ở giữa vùng này.
Đừng dùng cầu thang màu đen, bởi ở đó ẩn dấu nguy hiểm do rắn độc và những quỷ
ma khát máu. Thay vào đó, hãy lên cầu thang màu xanh lá cây”.
Với sự chỉ dạy ấy tôi tiếp tục cuộc hành trình.
Trong lâu đài rộng mệnh mông khác, tôi đi ngang qua một người đàn bà có vẻ rất
già, tóc ngả màu xám hơi vàng, có khoảng hai trăm dakini vây quanh. Các dakini
đang đọc các bản văn từ giáo khóa của ngài Karma Lingpa trên mạn đà la các bổn
tôn hòa bình và phẫn nộ và Tantra Sám hối Bất Nhiễm[68]. Người đàn bà chính cầm
giữ hơi thở trong thực tập thở-cái bình[69]. Khi bà thở hết ra, bà trục xuất
nhiều sinh vật sống trong nước như rắn nước, ếch và cá; từ thây chúng nổi lên
những cầu vồng trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, trong khi tâm thức chúng được
kéo lên các cõi thuần tịnh,
Thực ra vị dakini này tên là Wangmo. Sau khi đảnh lễ
và cúng dường, tôi tới gần bà. Bà đặt một
chuỗi xương sọ lên đầu tôi và cười thật dễ thương, trong một lát bà hỏi tôi là
ai.
Trong lâu đài mênh mông khác, bất chợt tôi gặp một
thiên nữ áo trắng, một dakini có năng lực an bình, ngồi trên một tấm nệm phủ lụa
và mặc áo choàng thêu kim tuyến linh thánh, có đoàn tùy tùng gồm bảy dakini vây
quanh. Tôi đảnh lễ và cúng dường bà. Các dakini đang hát thật ngọt ngào một bài
cầu nguyện sùng mộ để khẩn cầu năng lực của Đức Avalokiteshvara và một bài nguyện
ước hợp nhất với thần chú mani sáu âm. Nhưng ở đây tôi sợ trở thành quá dài
dòng và sẽ không viết dài hơn nữa.
Đức Yeshe Tsogyal xuất hiện trong một tòa lâu đài rộng
mênh mông rất đẹp có cửa nhìn về hướng đông. Bà phục sức đẹp đẽ với những áo
choàng lụa và trang điểm nhiều vật trang sức bằng châu báu và bằng xương, mái
tóc Bà đen, dày và rực rỡ. Sắc thân mỹ lệ không tả xiết của Bà đem lại niềm hỉ
lạc cho người chiêm ngưỡng. Bà được một đoàn tùy tùng gồm một ngàn dakini vây
quanh. Họ đang làm lễ tiệc cúng dường cội gốc đạo sư (guru), Sự Hội tập các Đạo
sư Trì giữ-Giác Tánh; cội gốc bổn tôn, Sự Hội tập các Đấn Vĩ đại và Vinh quang;
và cội gốc dakini, Nữ Hoàng Cực Lạc[70]. Tôi nhập vào những người tham dự tiệc
cúng dường, đảnh lễ và cúng dường Đức Yeshe Tsogyal, điều ấy làm Bà hài lòng.
Tôi khiêm tốn kể cho Bà về tiểu sử của mình thật rõ ràng và chi tiết.
“Hãy tiếp tục đi lên” Bà nói “và ta sẽ cho người dẫn
co tới gặp chú của con[71]. Sẽ khó mà vượt mà vượt qua, bởi con sẽ gặp một người
gác cổng rất nghiêm khắc”.
Tôi đi tới một nơi khủng khiếp, quả là cảnh tượng
làm tôi rùng mình khiếp sợ. Những mái vòm làm làm bằng da người được treo bằng
những sợi thừng là những con rắn. Những đầu lâu khô, những đầu người còn mới và
những đầu héo khô còn dính tóc treo khắp nơi. Những màn cửa và rèm tường làm bằng
da trăn màu đen.
Giữa tất cả những thứ đó, ngồi trênmột cái ngai màu
đen tuyền là một yogi tên là Pawo Namkha Odsal mặc y phục đen pha lẫn đỏ tía.
Tóc Ngài kết lại thành búi quanh một chày kim cương, trên đỉnh của nó là một miếng
ngọc lam nhỏ. Tai Ngài đeo những chiếc vòng bằng vỏ ốc xà cừ. Ngài mặc một áo
choàng trắng và cầm một trống tay lớn và chiếc kèn làm bằng xương đùi người.
Trông Ngài thật lôi cuốn khó cưỡng nổi. Một đoàn tùy tùng vây quanh Ngài gồm
sáu nhân vật mặc áo choàng không tay màu đen. Họ cực kỳ hung nộ, với mái tóc
đen xõa xuống và những biểu lộ nham hiểm, giận dữ. Tôi đảnh lễ và cúng dường
các ngài, cũng như dâng những lời ước nguyện.
Tiếp theo, tôi gặp một người gác cửa, một người đàn
bà da trắng mặc quần áo lụa và những vật trang sức bằng xương. Tên bà là
Nordzin Dronma và bà có mối liên hệ với tôi trong nhiều đời.
Giữa một lâu đài màu cam rộng mênh mông có bản chất
ánh sáng, ngự trên một cái ngai rất cao bằng pha lê đỏ và những tấm đệm bằng lụa
nhiều màu là vị phối ngẫu linh thánh Mandarava[72], có sắc đỏ sậm. Trong tay phải,
bà cầm một mũi tên cột những dải ruy băng và tay trái cầm một bình trường thọ.
Bà mặc một hạ y lụa ngắn, xếp li và đeo những vật trang sức quý báu. Được vây
quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm một trăm dakini giác tánh nguyên sơ, bà hát một
bài ca du dương về âm nhạc kim cương bất hoại. Tôi đảnh lễ và cúng dường như đã
làm trước đây và được Đức Tara thúc giục, tôi tụng một bài sùng mộ với bà. Một
cảm thức của đức tin phát khởi không thể tưởng tượng nổi trong tôi.
Tôi đứng lên khi hội kiến và tới gần bà. Vị phối ngẫu
linh thánh đặt bàn tay phải có cầm mũi tên cột dải ruy băng lên đầu tôi và hát:
Hung Ở biên giới tây bắc xứ Orgyan, …
Con khẩn cầu Ngài tới ban cho những ân phước.
Khi đã ban phước cho con nơi chốn tuyệt hảo này,
xin ban bốn quán đảnh cho hành giả ưu tú này.
Xin giải trừ những chướng ngại bởi cái chết không
đúng lúc.
Xin ban cho thành tựu của sự bất tử[73].
Đi xa hơn nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rất đẹp,
duyên dáng. Mười hai người đàn bà gác cữa đông, mười hai người gác cửa nam, mười hai người gác cửa
tây, mười hai người gác cửa bắc. Ở phía đông, cửa và những người gác cửa toàn bằng
pha lê, mặt phía nam bằng vàng, phía tây bằng hồng ngọc và mặt phía bắc bằng
lam ngọc.
Ở hướng đông là mười hai thiên nữ có mục đích dẫn dắt
chúng sinh, ở phương nam là mười hai thiên nữ có nhiệm vụ chỉ ra con đường đi tới
giải thoát. Ở phương tây tôi nhìn thấy mười hai thiên nữ thuộc yếu tố lửa chói
sáng và phương bắc mười hai thiên nữ là những bậc chiến thắng những mara[74]. Tất
cả các ngài mặc áo choàng theo màu phù hợp với các hướng tương ứng[75].
Ổ khóa trên cổng ngoài có chiều dài khoảng cánh
tay[76] và bằng vàng. Một trong những dakini mở cổng và cho tôi vào. Rồi cửa bắc
mở ra và tôi đi vào tòa nhà. Trong tòa lâu đài có 180 cây cột chống, 180 dakini
mặc y phục bằng lụa và đeo những đồ trang sức bằng xương, nhảy múa ca hát với
nhạc đệm một bài hát tên là “Sự Giải thoát Tự nhiên khỏi những Cõi Thấp”:
Hri Trạng thái không chỉnh sửa thoát khỏi sự tạo tác
ý niệm là đạo sư Pháp Thân.
Cực Lạc là đạo sư Báo Thân, chúa tể của Pháp[77].
Sinh ra từ một hoa sen là đạo sư của Hóa thân.
Chúng con đảnh lễ và tán thán bậc Kim Cương trì của
ba thân.
Thân giác ngộ của Ngài thì bất biến, là thân tướng của
Đức Samantabhadra (Phổ Hiền)[78]
Ngữ giác ngộ của Ngài thì không lây động và siêu vượt
ngôn ngữ, sự tưởng tượng, cùng sự biểu lộ.
Chúng con tán thán Ngài. Ôi vua Hoa Sen, bậc được
phú bẩm thân, ngữ và tam giác ngộ.
Đại học giả của xứ Ấn Độ cao quý, xin thương xót xứ
sở Tây Tạng.
Đức Kim Cương Sanh - trong - Hồ thoát khỏi sinh,
lão, bệnh, tử.
Chuyển hóa đám quỷ ma hiểm độc khát máu hướng về
Pháp.
Chúng con tán thán Ngài, Ôi Đức Padma T’hod T’hreng
Tzal[79].
Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.
Maha guru padma t’hod t’hreng tzal la namo hung.
Khi họ hát, tôi kinh nghiệm vô lượng đức tin và sự hỉ
lạc.
Ở một nơi khác, thình lình tôi nhìn thấy một người
đàn bà có nước da trắng mặc một cái khăn choàng và hạ y thêu kim tuyến trắng và
cầm một sợi chuỗi bằng pha lê đỏ. Bà chính là ni cô Kunga Monlam mà cũng được
biết là dakini Laykyi Wangmochhe[80]. Bà biểu lộ niềm vui chân thành đối với
tôi. Vén một tấm rèm có đính những hình trang trí bằng lụa, bà dẫn tôi tới giữa
cung điện. Ở đó tôi thấy đoàn tùy tùng của bà gồm bảy dakini, họ đặt một chiếc
nệm trắng để tôi ngồi. Chính Laykyi Wangmochhe đặt một mũi tên trường thọ lên đỉnh
đầu tôi và ngâm:
Om Sự trường thọ nguyên sơ không lầm lỗi.
Ta triệu mời điều này trong sự vinh quang cao cả nhất
của sự nối kết mặt trời và mặt trăng[81].
Sự trường thọ của đại lạc không biến đổi,
Ta triệu thỉnh điều này trong sự vinh quang của cốt
tủy vi tế của thân ánh sáng.
Sự trường thọ lâu dài không có sự đến và đi bình
phàm.
Ta triệu thỉnh điều này giữa Pháp giới bao la bất hoại,
vĩnh cửu và kiên cố.
Sự trường thọ là cái bị đánh cắp, cướp đoạt, gãy bể,
hoặc suy sụp bởi niệm tưởng lan man,
Ta triệu thỉnh điều này trong bản tánh nền tảng vô
điều kiện của giác tánh nguyên sơ vô niệm
Sự trường thọ đặt nền trên sự vô minh về các sự xuất
hiện của samsara, nirvana và con đường tâm linh[82].
Ta triệu thỉnh điều này trong trạng thái tự nhiên của
các sự việc bởi chúng thì phi - thời gian và nguyên sơ.
Nếu không có sự ngừng dứt, thì không có gì già đi, và vì thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ, nó
không có ngừng dứt và già đi.
Nếu không có sanh, thì không có chết đi, và vì thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ là cái
không sanh và không diệt.
Ah ah ah.
Bà tiếp tục: “Thật là may mắn bởi con đã tới cõi thuần
tịnh này từ thế giới bình phàm của con người. Con làm ta xúc động biết bao” và
bà khóc. Rồi bà gọi một cô gái tên là Apal đi cùng với tôi và tôi được dẫn ra
ngoài.
Đức tôn quý Tara Trắng nói với tôi: “Dawa Drolma,
con gái ta, chính ta là người đã sắp xếp cho con rời cõi người bình phàm và là
người dẫn dắt con tới cõi thuần tịnh này. Nhưng bây giờ chưa tới lúc để con và
ta ở lại núi Huy Hoàng này[83].
“Có một cõi thuần tịnh cao hơn cõi này, được phú cho
năm điều chắc chắn[84], nó là phạm vi chứng nghiệm của những bậc an trụ trong địa
thứ mười của sự chứng ngộ. Ở đó Báo thân của Đấng Bi Mẫn Siêu việt[85] được vây
quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm vô số các Bồ Tát nam và nữ, đang giảng dạy
Tantra Chúa công của sự Nhảy múa Hoa Sen Binh mẫn Siêu phàm.
“Trên đó là cõi thuần tịnh Pháp Thân, thoát khỏi sự
tạo tác ý niệm. Ở đó Đức Guru Padma an trụ, không gì khác hơn là sự xuất hiện tự-hiển
lộ tự nhiên của Đấng bảo trợ nguyên sơ[86], ban những giáo lý tâm linh cho một
tập hội trong đó ý hướng giác ngộ của vị thầy và của quyến thuộc thì không thể
phân ly, trình bày những giáo huấn truyền dạy trực tiếp vượt lên những biểu tượng,
ngôn ngữ và niệm tưởng bình phàm – tantra Đại Viên Mãn của sự bí mật tối hậu,
có tên là Giác Tánh Nội tại Tự-sinh[87].
“Thời đại ngày nay thiếu một sự may mắn cần thiết để
tiếp xúc trực tiếp với những cấp độ này. Vì thế hãy liên tục biểu lộ ước nguyện
thực hiện điều này vào một lúc nào đó. Đừng đề cập tới việc con đã đi tới cõi
thuần tịnh này”[88].
Cơ sự đã như thế này, tôi đau khổ đến nỗi tim tôi tưởng
chừng tan vỡ, buồn tủi đến độ tôi tưởng như mình có thể mất trí, hoàn toàn lạc
hướng khiến tôi không thể nhớ lại bất kỳ điều gì đã từng suy nghĩ vào thời gian
đó; tri giác của tôi bị mê lầm và lạc lối. Nước mắt tuôn rơi như thể mắt tôi
rơi ra ngoài. Tôi tự nghĩ: “Mặc dù giờ đây tôi có thể hội kiến Đức
Padmasambhava, tôi không vật cúng dường chính thức nào để dâng lên Ngài, không
có vàng bạc, không lễ cúng dường mạn đà la, ngay cả một khăn quàng lụa cũng chẳng
có”.
Ngay lập tức, Đức Tara ban cho tôi một dải ruy băng
tinh khiết bằng lụa trắng rất dài lấy từ mũi tên có trang trí ruy băng của Ngài.
Bởi quá nhiều hồ nghi, tôi nghĩ rằng hành động này sẽ làm mũi tên giảm giá trị,
nhưng Đức Tara nói: “Nó không bao giờ bị suy giảm, vì thế đừng quá keo kiệt”.
Ngài nói thêm: “Đây không phải là chỗ để bắt đầu kêu khóc. Hãy đi tới Đức Guru
và thỉnh cầu Ngài bất kỳ điều gì con ước muốn. Bất luận Ngài ban cho con điều
gì, dù là vàng, bạc hay ngọc quý, đừng mang chúng đi với con. Thay vào đó hãy cầu
xin Ngài ban cho con một khăn quàng lụa màu xanh dương có điểm những hình ảnh của
năm Hóa Thân[89]. Cũng hãy cầu xin để những mối liên hệ nghiệp của con với Ngài
từ những đời trước được thức giấc, những hành động làm lợi lạc chúng sinh của
con sẽ không có định kiến hay phân biệt, cầu xin cho con có năng lực để trực nhận
ra chúng sinh trong cõi thấp và để đem lại hứng khởi cho họ trong việc trau dồi
đức hạnh và cầu xin bất kỳ ước nguyện nào của con cũng được thành tựu”.
(Còn nữa)
No comments:
Post a Comment