Thursday, September 19, 2013

GỬI LẠI TRẦN GIAN

NAMAH AVALOKITÉSVARA
BODHISATTVA

JETSUN MILAREPA
GỬI LẠI TRẦN GIAN
Bản dịch: ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG


NGUYÊN-TÁC TÂY-TẠNG CỦA JETSUN MILAREPA, 
ĐẠI SƯ DU GIÀ TÂY-TẠNG
NGUYÊN VĂN TIẾNG ANH DO SIR ILUMPHREY CLARKE TUYỂN DỊCH
BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT CỦA ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG





LỜI TỰA

Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti; cũng cùng có một giọng điệu tình tự, cũng cùng một thiện cảm nồng nàn, cũng cùng mang một tính chất trần gian, đối với người Áo Vải cũng như đối với Poverello, toàn thể thiên nhiên là bạn cũng như một quyển sách thân yêu. Có khác nhau chăng là người trước học được bi tâm qua tri thức, trong khi người sau tìm được khôn ngoan qua tình thương. Mặc dù họ xa cách nhau trong không gian, song họ không cách biệt nhau về thời gian, bởi vì một người sống vào thế kỷ thứ mười hai thì người kia cũng sinh ra đời. Danh tiếng của mỗi người lan rộng trong quê hương họ một cách nhanh chóng và tiếp tục lan rộng mãi cho đến ngày nay: mọi trẻ con Tây Tạng đều biết câu chuyện một kẻ đại tội lỗi đã trở thành một bậc đại hiền triết, và Cuộc Đời[*] ông, đã được Rechung, môn đệ đắc ý của ông ghi lại, là một kho tàng quí giá vô cùng. Trong đó chúng ta biết được làm sao sau cái chết không phải lúc của người cha ông, mẹ ông và em gái ông đã bị ông chú và bà thím độc ác cưỡng đoạt gia tài; làm sao ông đã ra đi, vì ngay lúc còn bé ông đã là cậu bé cam đảm, học huyền thuật với một phù thủy địa phương; đã kêu mưa hú gió tạo những trận bão tuyết để tàn phá hoa màu của họ, đánh sập ngôi nhà của họ và giết chết những thực khách trong bữa tiệc đầu mùa, làm sao sự ăn năn hối hận đã đến với ông vì những việc ông đã làm; rồi làm sao ông đã tuyên bố đi tìm chân lý và gặp vị đạo sư định mệnh của ông: Lạt ma Marpa, như là một sự trừng phạt, trong bảy năm trời đã giáo huấn ông dã man đến nỗi tinh thần ông hầu như đổ vỡ, nhưng cuối cùng đã truyền thụ Bí pháp cho ông; làm sao sau những năm thiền định lâu dài trong cô đơn nơi rừng núi, cuối cùng ông đã đạt được giác ngộ và được Marpa phong thánh chức như là người thừa kế y bát của ông, và làm sao ông đã sống cho đến lúc tuổi già chín muồi, giảng dạy tín ngưỡng, làm các phép lạ và đã chết trong hương thơm thánh tính.
Marpa, đạo sư của ông, người được biết như là một Dịch giả; mặc dù là người Tây Tạng, ông đã học tập nghiên cứu tại một trường đại học Ấn Độ lừng danh: đại học Nalanda, ông đã trở thành một học giả thông thạo Phạn ngữ (Sanscrit) và đã dịch nhiều tác phẩm Phật giáo sang tiếng mẹ đẻ của ông. Đồng thời ông cũng là môn đệ đắc ý của Naropa, một trong những pundit (bác học tăng) lừng danh thời đó, và ông đã trở về Tây Tạng truyền bá giáo lý của thầy.
Giáo lý của Naropa là một hệ thống nghi lễ chính yếu đặt căn bản trên các thần chú và linh phù (mantras và yantra) năng lực sử dụng chỉ có thể truyền thụ một cách trực tiếp từ thầy sang trò. Từ đây danh hiệu của môn phái ông, phái Kargyudpa, những người theo truyền thống khẩu truyền (ngày nay môn phái này vẫn còn thạnh hành ở vùng biên giới Nepal và Sikkim và nhất là ở Tây Tạng). Để cho một môn đệ có đủ khả năng nhận lãnh tặng phẩm uy lực này, anh ta phải trường trải qua một sự nghiên cứu, học tập về tinh thần lâu dài, cũng như thực hành một cuộc luyện tập kịch liệt các bài tập Du già (Yoga) dành cho việc sản xuất luồng nội nhiệt (lửa tam muội) và bằng cớ chứng tỏ sự thành công là đủ khả năng chống lại cái rét cực độ trên các tuyệt đỉnh của Hy Mã Lạp Sơn mà chỉ mặc không gì khác hơn là một chiếc y vải mong lanh, rồi anh ta sẽ được phong tặng một danh hiệu đầy kiêu hãnh: danh hiệu Repa hay Người Áo Vải, như Milarepa. Nhưng sự gia tăng thân nhiệt sinh ra một thứ lửa nóng kịch liệt trong tâm người môn đệ mà anh ta ngây ngất sung sướng trong sự quán tưởng về các thế giới siêu cảm giác. Trong khi sự kiểm soát hơi thở đã làm cho anh ta đủ sức để kiểm soát năng lực tinh thần và nguồn sinh lực, để rồi quán sát những hóa thể của sinh lực trên bình diện xảo diệu. Bởi vì sinh lực không phải là máy móc, các hóa thể của nó xuất hiện trước tâm thiền giả như là các vị thần, những con quỷ tùy theo chúng hiền hay dữ, và bằng những thần chú đã học được, anh ta có thể điều khiển chúng theo ý muốn và dẫn dụ chúng. Nhưng anh ta không nên để chính mình bị năng lực mới đạt được đó trói buộc, và ở đây sự hướng dẫn của đạo sư rất cần thiết; bằng sự thiền định lâu dài về đại tượng Chân Không mà anh ta phải nhận thức tất cả những ảo ma này đều là chân không và không có gì khác nhau, như thế là anh ta đạt được kinh nghiệm tối thượng, cho phép sự giác ngộ xuất hiện một cách tự phát. Từ đó về sau anh ta tự do hiến mình trong từ bi để phụng sự loài người.

Bởi vì đạo Bon, tôn giáo nguyên thủy của Tây Tạng, là một tôn giáo có tính chất phù thủy (shamanistic) và thế giới của nó là thế giới quỉ thần. Người dân Tây Tạng hiểu dễ dàng tiếng gọi của một thứ Phật giáo rất gần với niềm tin của họ (Mật tông). Các đạo sư thuộc hàng tăng già chính thống, bắt đầu với Padma Sambhava (Liên Hoa Sanh), chỉ cần có năng lực thần thông và tri thức cao hơn các phù thủy đạo Bon (Bon shamans) để chuyển hóa quần chúng mê tín. Và như thế Phật giáo đã chiếm toàn thể xứ sở này trong một thời gian ngắn.

Về phần Milarepa ở đây được ghi lại trong hai quyển sách: Cuộc Đời và Những Bài Hát của ông. Trong tác phẩm sau là một tổng số những biến cố quan trọng nhất trong sự nghiệp tinh thần của ông làm sườn cho các ca khúc, vì mỗi trường hợp ông đều diễn tả những tư tưởng uyên thâm nhất của ông trong bài hát giọng điệu của các ca khúc xếp loại từ tình tự đến huyền nhiệm và triết lý cao siêu. Những ca khúc trong tuyển tập này chỉ là một phần nhỏ trong con số vĩ đại của toàn thể nguyên tác, được tuyển chọn cẩn thận để bày tỏ mọi khía cạnh của giáo lý ông. Chỉ một ít ca khúc trong số này đã từng được dịch sang tiếng Anh nhưng không tác dụng nhanh chóng vào quần chúng. Bút pháp được áp dụng trong bản dịch này là cố ý dùng các cổ tự để gây một cảm tưởng tương tự ngôn ngữ của chính nguyên tác đem lại cho người Tây Tạng ngày nay. Nhưng sự trực dịch vẫn cần thiết hơn; phải có một phương pháp để làm cho độc giả Tây phương có thể hiểu được những vi tế của hình thức Phật giáo rắc rối cao độ trong các thuật ngữ, song điều đó nhờ ở sự hiểu biết và kính trọng các truyền thống bản xứ. Nhiều bài thơ giản dị đến nỗi có thể làm cho người đọc có thể nhầm lẫn và nhờ ở một sự khảo sát già dặn hơn, người đọc sẽ thấy chúng ẩn chứa những chân lý tâm linh sâu xa lắm lắm. Và mặc dù các con đường của Milarepa và Thánh Francis of Assisi cách biệt, nhưng ai dám bảo chúng không đồng qui nơi tối thượng?
 h.c.

SỰ TRUY CẦU CỦA MILAREPA

1
Khi đã gọi tên, ta là người cách biệt;
ta là hiền nhân Tây Tạng;
ta là Milarepa.
Ta nghe ít nhưng an ủi nhiều;
ta suy tư ít nhưng kiên tâm nhiều;
ta ngủ ít nhưng bền bỉ thiền định nhiều;
Biết một sự ta kinh nghiệm tất cả mọi sự;
biết mọi sự ta thấy rõ tất cả là một;
ta có kinh nghiệm về chân thực tại.
Chiếc giường ta hẹp khiến ta co lại dễ dàng;
áo quần mong manh làm thân ta ấm áp;
thức ăn đạm bạc làm bụng ta thỏa mãn.
Ta là mục tiêu của chư đại thiền giả;
ta là nơi họp mặt của những kẻ tín thành;
ta là vòng sinh tử và hoại diệt.
Ta không có sự ưu tiên cho bất cứ quốc gia nào:
ta không có quê hương nơi đâu cả;
ta không tích tụ lương thực cho sự sống của ta.
Ta không ham thích vật chất;
ta không phân biệt thức ăn sạch hay không;
ta ít bị khổ đau dằn vặt.
Ta ít dục vọng vì tự ái;
ta ít bị triền phược hay tà kiến;
ta đã tìm thấy tự do của Niết bàn.
Ta là kẻ an ủi của những người già yếu;
ta là bạn nô đùa của những đứa trẻ thơ;
là hiền nhân, ta rong chơi khắp cõi miền vương quốc trần gian.
Ta cầu nguyện thần và người sống chung dễ dãi.

2
Cúi đầu đảnh lễ trước uy lệnh của chư bậc tôn sư.
Ta nhất tâm cầu nguyện được trú nơi ân từ của họ.
Khi các người nhìn ta thì ta là kẻ giải đãi, nhàn nhân;
khi ta tự nhìn ta thì ta là người bận rộn, việc nhiều.
Vì trên cánh đồng bằng của vô cùng bất tác
ta đang tạo dựng, tạo dựng nhiều tháp chánh định;
ta không có thì giờ để tạo xây nhà cửa.
Vì trên triền dốc chân không chân thực
ta đang đập phá, đập phá xích xiềng đau khổ,
ta không có thì giờ để cày bừa ruộng đất gia đình.
Vì trong dòng nhất thể bất sinh,
ta đang khắc phục, khắc phục con quỉ thù: bản ngã,
ta không có thì giờ để khắc phục kẻ thù sân hận.
Vì trong lâu đài thức tâm siêu việt nhị nguyên,
ta đang chờ đợi, chờ đợi kinh nghiệm tâm linh như chờ đợi tân nương,
ta không có thì giờ để tạo lập gia đình.
Vì trong vòng chư Phật của thân ta
ta đang chăm sóc, chăm sóc đứa con trí huệ,
ta không có thì giờ để chăm sóc những đứa con khóc than giả dối.
Vì trong thân này, nơi ngự tọa của trọn niềm hoan hỉ;
ta đang dành dụm, dành dụm lời giáo huấn và sự suy tư quí giá,
ta không có thì giờ để dành dụm của cải thế gian.
Bởi vì trên núi cao của chân lý vô hạn
ta đang canh giữ, canh giữ con ngựa hoang tự tri,
ta không có thì giờ để canh giữ những con cừu.
Bởi vì bên ngoài thịt xương đất sét
ta đang chế tạo, chế tạo chiếc hộp thánh tích diệu kỳ,
ta không có thì giờ để đúc xây thánh tượng.
Bởi vì trên chóp đỉnh trái tim tam giác của ta
ta đang nâng cao, nâng cao ngọn lửa tịnh quang,
ta không có thì giờ để dâng lửa tế thần.
Bởi vì trong điện đền chân không vô sai biệt của miền cực lạc,
trước hình ảnh của thức tâm an tĩnh,
ta đang dâng, đang dâng những tế vật muôn đời,
ta không có thì giờ để làm việc cúng bái thông thường.
Bởi vì nơi phiến tâm khiết bạch
ta đang viết, đang viết những lời vô dục,
ta không có thì giờ để vẽ tranh thần thánh.
Bởi vì trong chiếc sọ chân không
ta đang khuấy động, khuấy động những phiền não độc dược,
ta không có thì giờ để khuấy động lời nịnh hót thánh thần.
Bởi vì trong nơi qui ẩn bí mật của thiện ý
ta đang âu yếm, âu yếm những bạn bè
những hiện thể hữu tình của sáu loại chúng sinh,[1]
ta không có thì giờ để âu yếm thân nhân quyến thuộc.
Bởi vì trước mặt chư sư chư phụ,
ta đang mang nặng, mang nặng những lời khuyên răn,
ta không có thì giờ để sành sỏi những trò giải trí tầm thường.
Bởi vì trong cô tịch của hang động trên núi cao
ta đang hoàn thành, hoàn thành ánh sáng lòng ta,
ta không có thì giờ để lãng quên trong giấc ngủ.
Bởi vì trong chiếc tù-và tam giác của miệng ta;
ta đang hát, đang hát khúc hát tâm linh,
ta không có thì giờ để nói chuyện tầm phào.

3
Cúi đầu đảnh lễ chư sư, chư phụ.
Núi cao không thiên lệch
là tu viện của trí huệ ta.
Những kẻ bố thí, nam và nữ của vương quốc
là những người cung cấp thực phẩm trí huệ ta.
Ta nghĩ, ta - bậc hiền nhân sẽ đến cư ngụ
trong các tu viện trên núi cao hoang vắng
Lời khuyên răn mà thầy đã hoan hỉ ban cho,
nếu mang vào sẽ nhẹ hơn lông
nếu cất đi sẽ quí hơn vàng;
nếu thực hành trong âu lo sẽ vững chãi hơn thành trì.
Ta, bậc hiền nhân, là sư tử giữa loài người.
Ba mùa đông rồi ta vui chơi trong rừng thẳm;
ba mùa hạ rồi ta vui chơi trên đỉnh tuyết trắng phau;
ba mùa xuân rồi ta vui chơi trên đồng cỏ cao nguyên;
ba mùa thu rồi ta đã tìm của bố thí bất cứ loại nào.
Lòng ta đã vui với lời khuyên nhủ của thầy ta,
miệng ta đã vui với những khúc hát của hồn ta,
thân ta đã vui với chiếc áo vải xứ Nepal.
Ta đã sống vui, sống vui như thế
Ôi các người, các người có sống vui như thế hay không?

4
Khi năm con cọp hết
và năm con thỏ bắt đầu
vào ngày mùng sáu tháng con chồn kêu,
ta đã chán dần, chán dần sự vật thế gian này,
bởi vì nồng nàn mến yêu cô tịch
ta đã lên tận đỉnh Everest, nơi thánh địa hoang vu.
Rồi trời đất khuyên nhau
gửi gió lốc đi làm thiên sứ.
Gió và nước sục sôi
và mây đen bắc phương cuộn hội;
đôi tinh cầu vô song, mặt trời và mặt trăng bị nhốt tù,
hai mươi tám vì tinh tú của chị hằng buộc chặt vào nhau; tám hành tinh bị ném tung vào xiềng xích
và giải ngân hà yếu đuối bị buộc ràng
những vì sao nhỏ đã hoàn toàn bị hơi mù khâm liệm
khi vạn vật bị vùi lấp trong hỗn mang và chín ngày chín đêm tuyết trời băng giá
rơi xuống, rơi xuống đều đặn mười tám lần.
Khi tuyết rơi nhiều
những bông tuyết lớn như những khối lông cừu,
và rơi mênh mang bập bềnh như những đàn chim lông trắng.
Khi tuyết rơi ít
những bông tuyết chỉ nhỏ như những con thoi,
và rơi quay tròn như những con ong;
những bông tuyết nhỏ như những hạt đậu ve hay hạt cải sen,
và rơi quay tròn như những con quay cuộn chỉ.
Tuyết luôn luôn vượt quá độ cao sâu,
trên cao, đỉnh tuyết trắng cao vút trời xanh
và dưới thấp, cây rừng cúi đầu chào đón.
Tuyết trắng mặc áo những ngọn đồi âm u
giá băng đóng ngập sóng mặt hồ
và dòng Tsangpo[2] xanh xanh dẫy dụa dưới lòng sâu.
Trái đất giống như đồng bằng không núi đồi thung lũng,
và dĩ nhiên, trong cuộc tuyết rơi vĩ đại như thế
bậc phàm phu đâu nói được lời nào,
đói chết cả các loài gia súc
và nhất là các chú nai tơ không tìm được thức ăn,
những chim trời thiếu thực phẩm,
những chú sóc ngắn đuôi
và những chú chuột đồng trốn chui vào hang ngách;
đôi hàm răng của những con thú bắt mồi cứng nhắc.
Trong những tình cảnh hãi hùng như thế
một định mệnh kỳ lạ đã đến với ta, Milarepa.
Là ba thứ này: bão tuyết tự trời cao,
cơn lốc băng giá mùa đông
và chiếc áo vải mà ta, hiền nhân Mila, mặc;
cùng nhau đua tranh trên đỉnh tuyết trắng ngần.
Tuyết rơi xuống tan thành nước lạnh;
gió mặc dù cuồng liệt cũng tiêu tan,
và chiếc áo vải của ta sáng lên như lửa đỏ.
Sống và chết vật nhau tranh kỷ lục
giáo và gươm mong chiến thắng giao đua.
Thì nơi đó ta đã là kẻ vô địch trong cuộc đua tranh anh dũng
ta sẽ là tấm gương cho những kẻ tín thành
và sẽ là tấm gương cho những kẻ trầm tư,
và nhất là đã chứng tỏ một tuyệt diệu
của chiếc áo vải duy nhất và lửa ấm bên trong.
Vì tất cả nguyên nhân ẩn kín của vô trật tự được quân bình
và từ đây mối xung đột trong ngoài từ xưa được 
hòa giải.
Cả hai hơi thở nóng và lạnh
đã đem lại sự kiên cường
và ta đã hoàn toàn khắc phục được con quỉ mặt tuyết
mà nó đã hứa theo lệnh ta từ đó.
Rồi ta đã ra lệnh được trong tĩnh lặng
và không cần tụ tập những đoàn quân thế gian này
vì hiền nhân là kẻ chiến thắng huy hoàng cuộc xung đột hôm đó.
Vì ta là cháu của ông ta và ta mặc áo da cọp
nên khi ta mặc áo da chồn không ai nói điều gì.
Ta là con của cha ta và ta thuộc dòng giống vô địch:
nên chưa từng chiến bại trước kẻ thù nóng giận nào.
Thuộc dòng họ sư tử là chúa tể sơn lâm:
ta luôn luôn chỉ sống trong tuyết lạnh.
Thế nên sự chuẩn bị của địch thủ ta trở thành vô ích.
Nếu các ngươi chịu vâng lời lão nhân này
giáo lý tu tập nhiếp tâm
từ đây sẽ lan rộng mãi và nhiều thánh nhân sẽ xuất hiện;
và ta - hiền nhân Milarepa - sẽ là người lừng danh nhất
của tất cả những vương quốc trần gian này.
Các ngươi, đệ tử của ta, những kẻ tụ hội nơi này
sẽ tràn đầy tín đức
và lời đồn đãi các ngươi sẽ được bàn tán ra ngoài.

5
Núi Tisé và hồ Mapang (được biết nhiều hơn với danh hiệu núi Kailas và hồ Manasnowar), chân núi nguyên là thánh địa của Bon Milarepa, tuy nhiên chúng ta biết rằng bậc thầy của các tu sĩ Bon huyền bí, từ đó đã giáo hóa họ và lấy danh hiệu Phật giáo. Cho tới ngày nay, nơi đó người ta vẫn còn tổ chức những cuộc hành hương quan trọng nhất của Phật giáo, nhiều hành giả yoga sinh hoạt và nhiều người hành hương thăm viếng hàng năm. Đây là ca khúc khải hoàn của Milarepa.
Đây đỉnh Tisé băng giá trắng ngần danh vang dội
là núi cao tuyết phủ chập chùng,
chứng tỏ lời Phật đà khiết bạch.
Đây hồ Mapang bích ngọc danh vang
là nước biếc chảy qua miền nước lạnh
chứng tỏ rằng tạo vật dung thông.
Đây ta, Milarepa, danh vang lừng lẫy
chỉ là một ông lão trần truồng
chứng tỏ rằng ta đã từ bỏ và không cần tư lợi.
Đây ta là kẻ hát những khúc ca nho nhỏ,
chứng tỏ rằng ta đã đọc thế giới này như đọc quyển sách con.
Đây ta cầm tích trượng trong tay,
chứng tỏ rằng ta đã lội qua biển luân hồi sanh tử.
Vì ta đủ năng lực khắc phục được cả thân tâm,
khi ta biểu diễn những pháp thuật diệu huyền hùng mạnh, ta không còn lệ thuộc vào chư thần của thế gian này.
Đây Tisé, sơn vương của núi non trên mặt đất;
là hùng lực đối với mọi kẻ theo Phật đà,
nhất là với Milarepa, một Kargyudpa[3] Tây Tạng.



[1] Các nơi có đánh số, xin xem bảng ngữ vựng ở cuối sách.
[2] Tức sông Brahmaputra.
[3] Danh hiệu môn phái của Milarepa.


HIỀN NHÂN

6
Ta, ta là bậc đạo sư tôn kính,
đã dạo chơi trong thành phố huyễn ảo của sáu loài chúng sinh (1)
như một đứa trẻ thơ với những ấn tượng hư huyền
đã dạo bước thong dong qua những ảo ảnh của hành động.

Đôi khi ảo giác về sự đói xuất hiện
ta đã ăn của bố thí bất cứ loại nào.
Đôi khi ta đã gặm đá vì giới luật,
đôi khi ta được nuôi dưỡng bằng chân không,
và đôi khi ta đã tập cho quen với thống khổ như việc nhất thời.

Đôi khi ảo giác về sự khát xuất hiện
ta đã uống nước xanh mát của những khối đá đen.
Đôi khi ta đã uống nước của riêng ta,
đôi khi ta đã uống dòng từ ái,
và đôi khi ta đã uống nước huyền bí của thiên nữ trên trời.

Đôi khi ảo giác về sự giá lạnh xuất hiện
ta đã mặc cho ta chiếc áo vải duy nhất.
Đôi khi ta đã sưởi ấm bằng lửa tam muội bên trong,
đôi khi ta đã tập cho quen với thống khổ như việc nhất thời.

Đôi khi ảo tưởng về tình bằng hữu xuất hiện
và ta đã tin tri thức và trí tuệ như bạn bè.
Ta đã thực hành mười thánh hạnh, (2)
ta đã kinh nghiệm về chiêm ngưỡng siêu việt,
và ta đã quán sát tâm thức tự tri.

Ta, bậc hiền nhân, là sư tử giữa loài người,
đã dương chòm lông bờm bích ngọc của quán tưởng
và đã chiếm được nanh vuốt của trầm tư
giữa những đỉnh tuyết, đã tự đem mình làm thí nghiệm
và hy vọng sẽ hái đức hạnh như hái trái cây tươi.

Ta, bậc hiền nhân, là hổ giữa loài người,
đã thành tựu ba lực của thức tâm giác ngộ.
Với nụ cười của pháp huệ bất khả phân
hắn cư ngụ trong khu rừng tịnh quang lành mạnh
và hy vọng hái sự tốt lành của đồng loại
như hái trái cây tươi. 

Ta, bậc hiền nhân, là linh thức giữa loài người
đã dương đôi cánh lễ nghi huy hoàng của sáng tạo
với bộ lông phấp phới của lễ nghi hoàn hảo (4)
đã quay tròn trong bầu trời nhất thể siêu việt với lý chân.

Ta đã ngồi nghỉ trên núi đá của thực tại tuyệt đối
và hy vọng hái được điều lành
của đồng loại và của chính ta như hái trái cây tươi.

Ta, bậc hiền nhân, là kẻ thánh thiện giữa loài người
ta là Milarepa.
Ta là kẻ đi con đường của mình;
ta là kẻ an ủi của mọi hoàn cảnh
ta là bậc hiền nhân không có nơi trú nhất định.
Ta là kẻ không bị ảnh hưởng trước bất kỳ việc gì xảy ra;
ta là kẻ tìm của bố thí không thực phẩm;
ta là kẻ trần truồng không quần áo;
ta là kẻ ăn mày không sở hữu.
Ta là kẻ không nghĩ đến ngày mai;
ta là kẻ không nhà, không nơi trú ngụ;
ta là kẻ chiến thắng vinh quang viên mãn.
Ta là tên điên coi tịch diệt là hạnh phúc
ta không có và không cần chi cả.

7
Thầy, lời khuyên và môn đệ là ba;
nhiệt tâm, nhẫn nhục và đức tin là ba;
trí huệ, từ tâm và an lạc là ba;
và đây là những mối đạo muôn đời.

Tịch tĩnh
là mối đạo dẫn đến quán tưởng trường tri. 
Thánh sư Jetsun
là bậc đạo sư rọi sáng vô minh.
Đức tin không mệt mỏi
là mối đạo đưa đến an lạc.
Thấy rõ năm thức
là mối đạo đưa đến giải thoát nô lệ tình cảm.
Lời răn của thầy về Tăng hội Kargyudpa
là mối đạo bày tỏ ba thân (5).
Tam bảo và nơi nương náu
là mối đạo dẫn đến chân thật bất hư.
Được sáu mối đạo này dẫn dắt
hiền nhân sẽ đến cõi cực lạc
và ngụ trong cảnh giới vô phân biệt
an vui trong cảnh tự tri và tự giải thoát của mình.
Vì hiền nhân tự định
trong sự chứng ngộ chân lý và thực tại,
và trong sa mạc hoang vu không người lai vãng
hiền nhân hát khúc hoan ca này bằng giọng sấm sét rền vang.
Cơn mưa an lạc tưới xuống mọi miền
và đóa hoa từ ái mở phơi từng cánh;
quả trí huệ chín muồi khiết bạch
và hạnh giác ngộ tràn đầy vạn vật.

8
Cúi đầu đảnh lễ phụ thân,
châu báu sẽ tràn đầy mọi khát vọng của ta.
Cầu mong người gia ân ban cho đứa con của người
gặp được trợ duyên
và trong chính thân con, nơi cư ngụ của thần tính,
khiến cho con được đón chào chân tri về thực tại.

Trong lúc sợ chết ta đã tạo dựng một ngôi nhà
và ngôi nhà của ta là ngôi nhà chân không chân thực,
và bây giờ ta không còn sợ chết. 

Trong lúc sợ lạnh ta đã tìm kiếm áo quần,
và áo quần của ta là áo quần tam muội chân hỏa;
và bây giờ ta không còn sợ lạnh.

Trong lúc sợ thiếu ta đã tìm của cải
và của cải của ta huy hoàng vô tận, bảy lần;
và bây giờ ta không còn sợ thiếu.

Trong lúc sợ đói ta đã tìm thực phẩm
và thực phẩm của ta là thực phẩm trầm tư chân lý;
và bây giờ ta không còn sợ đói.

Trong lúc sợ khát ta đã tìm nước uống;
và nước uống của ta là cam lồ chánh tri;
và bây giờ ta không còn sợ khát.

Trong lúc sợ chán ta đã tìm bạn hữu
và bạn hữu của ta là chân không miên trường lạc phúc;
và bây giờ ta không còn sợ chán.

Trong lúc sợ lầm lạc ta đã tìm đường
và đường của ta là đường nhất thể siêu việt;
và bây giờ ta không còn sợ lạc.

Ta là một hiền nhân giàu sang
chủ nhân của những kho tàng dục vọng tràn đầy
và bất cứ nơi nào ta cư ngụ, hạnh phúc cũng bên tầm tay với.

Thành trì sư tử của hang cọp Yolmo
mến yêu tiếng gầm loài cọp,
và tiếng cọp gầm đã bức lui ta không cưỡng được.
Tiếng cọp gầm thảm thiết khua động từ tâm
làm ta bối rối khôn cầm
trầm tư về giác ngộ.

Tiếng kêu chí chóe của con khỉ buộc phải chú ý
làm ta bối rối khôn cầm
trào dâng ngao ngán thế gian.

Tiếng kêu thét của con khỉ nhỏ khiến lòng bật cười
làm ta bối rối khôn cầm
trầm tư về thức tâm nhanh chóng.

Tiếng kêu than của chim tử qui khua động đáy hồn buồn làm ta bối rối khôn cầm
giọt lệ tuôn rơi.

Tiếng hót của chim sơn ca quyến rũ bên tai
làm ta bối rối khôn cầm
dịu ngọt lắng nghe.

Tiếng kêu rộn ràng của loài quạ đen,
bạn của hiền nhân, ban ân cho trí huệ.

Kẻ nào ở những nơi như thế, hắn an vui
và nếu không có bạn, hắn vẫn an lạc.
Mong sao khúc hoan ca này của hiền nhân
mang đi nỗi đau khổ của loài người.

9
Cũng sung sướng như thường nhân thoát khỏi bẫy hầm; khi bậc hiền nhân khước từ quyền thừa kế.
Cũng sung sướng như tuấn mã thoát khỏi giàm cương,
khi bậc hiền nhân vượt qua phân biệt.
Cũng sung sướng như con thú tránh khỏi bị thương,
khi bậc hiền nhân cư ngụ một mình.
Cũng sung sướng như chim ó lượn giữa trời cao,
khi bậc hiền nhân được ngồi quán tưởng.
Cũng sung sướng như gió lạnh lùa qua không khí,
khi bậc hiền nhân bước đi trên đường vô ngại.
Cũng sung sướng như người chăn cừu ban phước cho con cừu trắng,
khi bậc hiền nhân giữ tâm mình thông suốt.
Cũng sung sướng như núi Tu di giữa lòng vũ trụ
khi bậc hiền nhân tịch nhiên bất động.
Cũng sung sướng như dòng nước sông sâu,
khi bậc hiền nhân hưởng vui dòng tư tưởng.
Cũng sung sướng như xác chết trong nghĩa trang,
khi bậc hiền nhân từ bỏ những việc thế gian này.
Cũng sung sướng như viên đá ném vào lòng biển,
bậc hiền nhân sẽ không thối chuyển bao giờ.
Cũng sung sướng như vầng thái dương giữa bầu trời thẳm
bậc hiền nhân sáng soi tất cả.
Cũng sung sướng như chiếc lá ngô đồng lìa cành,
bậc hiền nhân sẽ không tái sinh nữa.
Đây là ca khúc mười hai miền hạnh phúc của hiền nhân,
cầu mong mọi người chóng được tín tâm để học.

10
Hỡi những vua quan khát khao hạnh phúc,
nếu các người có được vương quyền của Milarepa
và giữ được nó thì các người sẽ hoàn toàn hạnh phúc
trong đời này và cả những đời sau.
Vương quyền của Mila nằm trong sự khôn ngoan này:
Bánh xe đức tin quí giá mang lại sự thực hành đạo hạnh ngày đêm.
Châu ngọc trí huệ quí giá
làm tròn bổn phận của tất cả, với ta và đồng loại.
Người vợ quí giá sống đời đức hạnh
được tôn thờ bằng những món trang sức vô song.
Vị quan trầm tư sâu xa quí giá
tích trữ sự giàu sang công trạng và trí huệ gấp hai.
Con voi tiết tháo quí giá
mang nặng giáo lý Phật đà.
Sự thuần nhất của kiên tâm quí giá
đưa dẫn đến chốn không tội không ta.
Châu báu giáo huấn và suy tư
khắc phục kẻ thù khôn lanh giả dối.
Nếu các người có được vương quyền này,
các người sẽ là những vị vua cao quí và danh tiếng nhất;
sẽ luôn luôn chiến thắng địch thù;
sẽ khiến bầy tôi thi hành những việc hoàn toàn đạo đức.
Nguyện cầu tất cả chúng sinh đã sinh ta trong những đời trước,
thành toàn vương luật của ta.

KHƯỚC TỪ
11
Cúi đầu đảnh lễ thầy ta, bậc chúa tuyệt hảo.
Giàu sang giống như sương trên lá cỏ
vì thế hãy bố thí không tham lam.

Khi ngươi đạt được sự ban phúc toàn hảo của loài người,
hãy giữ giới luật như giữ gìn vưu vật.

Nóng giận là cội rễ của tội lỗi
vì thế dẫu đời ngươi có thất bại, hãy trầm tư về nhẫn nhục.

Đừng biếng nhác trong việc cải thiện đồng loại và chính ngươi
nhưng hãy tỏ nhiệt tâm trong việc làm đạo hạnh.

Trong lầm lạc, Giáo lý Đại thừa vô nghĩa cho ngươi,
vì thế hãy trầm tư nghĩa Đại thừa với tâm duy nhất.

Khi ngươi tìm Phật mà không thấy,
hãy ngắm nhìn thể tánh của tâm ngươi.

Lòng tin giống như sương mù mùa thu,
vì thế khi nó biến mất hãy cầu chánh định.
12
Cúi đầu đảnh lễ Marpa từ ái.
Nhất quyết xa lìa ngã tướng là vui.
Từ bỏ tình yêu quê hương là vui.
Thoát khỏi luật lệ làng xóm là vui.
Không làm kẻ cắp của cải tầm thường là vui.
Không có lý do để tham lam là vui.
Có nhiều của cải tinh thần là vui.
Không phải khổ vì kiếm ăn là vui.
Không sợ bị mất mát hay tiểu trừ là vui.
Không sợ suy đồi là vui.
Có tín tâm sâu xa là vui.
Vô ngại đối với tư lợi của kẻ bố thí là vui.
Giúp đỡ không chán là vui.
Không sống giả hình là vui.
Đi vào đức tin bằng mọi hành vi là vui.
Thích du hành không biết chán là vui.
Không sợ chết thình lình là vui.
Không sợ bị cướp giật là vui.
Gặp sự tinh tấn trên đường Đạo là vui.
Tránh hành động xấu là vui.
Cần mẫn làm việc hiếu thuận là vui.
Đã bỏ được tánh sân độc hại là vui.
Tránh kiêu mạn và ganh tị là vui.
Nhìn thấy tám đường thế gian (6) đầy tội lỗi là vui.
Xa lìa tám đường thế gian với lòng bình tĩnh là vui.
Thoát khỏi hy vọng và sợ hãi là vui.
Trong thế giới bất khả tri, tịnh quang là vui.
Trong dòng vô phân biệt, trí huệ là vui.
Trong trạng thái tự tạo tác, hiện thể nguyên sơ là vui.
Điều động được tâm và thức là vui.
Tịnh trí để điều khiển hành động là vui.
Chấm dứt được sự đến và đi của trí tưởng là vui.

Đây là những niềm vui khác nhau của ta
và đây là khúc hoan ca của hiền nhân
ta không mong cầu một thứ hân hoan nào khác.
Vì chết là vui nếu ngươi không làm ác,
và sống là vui nếu ngươi tinh tiến hiếu thuận.
Cơm áo là mối quan tâm của kẻ bố thí, nhưng đây là ân huệ quí giá nhất của Đạo sư,
và là thước đo an lạc của hiền nhân

13
Đường thế gian hư ngụy:
nên ta khao khát thực tại chân như.
Bị những sở hữu thế gian lay chuyển là hư ngụy:
nên ta cố công siêu việt nhị nguyên.
Làm tôi tớ thế gian là hư ngụy:
nên ta rong chơi lẻ bóng trên núi cao.
Giàu sang và của cải là hư ngụy;
nên ta từ bỏ vì đức tin ta có.
Ngoại vật là hư ngụy:
nên ta quán sát tâm ta.
Tư tưởng phân biệt là hư ngụy:
nên ta theo trí huệ không hai.
Chân lý quy định là hư ngụy:
nên ta trầm tư về lời khuyên của truyền thống rỉ tai.
Triết luận là hư ngụy:
ta nghiên cứu đã lâu và thấy nó không lừa.
Sanh tử là hư ngụy:
nên ta chiêm ngưỡng chân lý đời đời.
Trí phàm phu là hư ngụy:
nên ta trau dồi trí huệ vô song.
Niềm vui do trí tưởng là hư ngụy:
ta cư ngụ đời đời trong thực tại chân như.

14
Khi ta ở trước mặt thầy ta
một trạng thái tinh thần giống như bảo kiếm xuất hiện
và hồn ta hân hoan giải trọn những nghi ngờ.

Khi ta đứng giữa sa mù dày đặc
một trạng thái tinh thần giống như bảo đăng xuất hiện
và hồn ta hân hoan tri giải những khuyên nhủ tinh thần.

Khi ta đứng trên đỉnh Gangkar
một trạng thái tinh thần giống tiếng gầm của loài bạch sư xuất hiện
và hồn ta hân hoan đánh bại những đối thủ tranh luận của ta.

Khi ta đứng trên triền núi Drakmar
một trạng thái tinh thần giống như linh thứu chúa xuất hiện
và hồn ta hân hoan an định những đợt sóng đại dương ngoại cảnh.

Khi ta vô tư rong chơi qua nhiều vương quốc
một trạng thái tinh thần giống cọp gấm trẻ xuất hiện
và hồn ta hân hoan không khát khao tình cảm.

Khi ta ở trong vòng sinh tử luân hồi
một trạng thái tinh thần giống như hoa sen xuất hiện
và hồn ta hân hoan cởi bỏ tội lỗi thế gian.

Khi ta ở giữa đám đông nhân thế
một trạng thái tinh thần giống như thủy ngân sáng chói xuất hiện
và hồn ta hân hoan trần truồng nhận thức.

Khi ta ở giữa những kẻ thành tín lắng nghe
một trạng thái tinh thần giống như thức tâm Mila tôn kính xuất hiện
và hồn ta hân hoan rót lời thành ca khúc nhủ khuyên.
Niềm hân hoan ta được nơi ân điển của thầy ta
và cõi lòng thành thực này là nhiệt tâm Phật tính.

15
Con ơi, hãy hài lòng với xác thân làm tu viện,
vì chất thân là cung điện của tinh thần.
Hãy hài lòng với tâm thức của đạo sư,
vì tri chân là khởi sự của thánh linh.
Hãy hài lòng với ngoại vật làm kinh sách,
vì số kia là biểu tượng của đạo mầu.
Hãy hài lòng với chánh định làm thực phẩm,
vì tịnh an là như thể của thần linh.
Hãy dùng lửa bên trong làm y phục,
vì nữ thần mặc áo ấm hân hoan.
Hãy vui lòng từ bỏ bạn bè,
vì cô đơn là chủ tọa cuộc hội thần.
Hãy vui lòng tránh kẻ thù cuồng nộ,
vì tính thù là khách du trên tà đạo.
Hãy vui lòng thiền định về Chân Không,
vì ma ảo đều do tâm thức tạo.

16
 Kẻ nào nói năng không hùng biện
được hay không tặng phẩm của giảng rao.
Dù kẻ van xin hiện giờ không có,
song hắn mang ý hướng tốt trong lòng.
Sáu thánh hạnh viên dung toàn giáo lý.

Từ ái là tánh vương của tôn giáo:
nếu một người trọn bỏ những gì mình có
hắn sẽ nhận được nước lành của thượng đế.
Đức từ ái làm an vui lòng tín sĩ.

Sống trì giới là thang cao trời tự tại:
không một ai nối gót của Phật đà
dám từ bỏ thang kia không dùng đến.
Hỡi những người họp mặt nơi đây,
hãy trì giữ chân lý này thật kỹ.

Sống nhẫn nhục là đạo hành thánh thiện
mà kẻ nào theo gót đức Mâu ni
hãy tự mặc cho vừa phúc y nhẫn nhục,
loại áo ấy thực khó mặc cho vừa.

Kiên tâm là đường ngắn đưa đến tự do:
là đường cần thiết đến toàn thánh tính,
kẻ nào thiếu nó ắt lòng sẽ buồn vì thất vọng.
Con người phải ngồi trên lưng ngựa kiên tâm.
Không ai nghe và suy nghĩ sâu xa
về công đức đạt được qua sự hành đạo
dám đem cho con ngựa quí bao giờ.

Thiền định là đạo phẩm đem lại chân tri.
Nó là nơi ẩn mật để đạt gấp đôi công đức.
Vì chắc chắn sẽ cần sự ẩn cư bí mật,
đây là phương thuốc chữa bệnh não phiền.
Ta cầu mong mọi người tự áp dụng cho mình
để mang lại thiện lành cho chính mình và kẻ khác.

Trí tuệ là đạo phẩm để tìm chân thực tại.
Nó là kho tàng duy nhất chư Phật đà,
là nguồn vui bất tận cho kẻ nào tìm thấy
là sự giàu sang xóa tan nỗi nghèo khó của loài người.
Nó trọn dứt tám mối dây chướng ngại,
và ban cho phước lành cao cả nhất.
Kẻ nào gặt hái chân tri đều quí hóa
và từ từ thành tựu uy quyền.

17
Ôi vì các loài hữu tình thế gian:
chiếc bóng của ác nghiệp thì u minh đen tối;
những tên cắp của tư tưởng phân biệt vô cùng tàn nhẫn ấy
là nỗ lực theo đuổi viên ngọc nhiếp tâm
phải cố gắng bình tĩnh canh chừng;
kẻ ác nhân không nghĩ về tử thần đang đến.
Hỡi Rechung, con và ta phải cùng đi
lên đỉnh Hy mã lạp sơn tuyết phủ.

Dòng thế tục là đường dài trên hố thẳm
những tên cướp của năm thức dã man vô hạn;
ấy là nỗ lực ghì ôm đứa trẻ thơ tri thức;
phải gắng tìm mối đạo khôn ngoan;
kẻ ác nhân không nghĩ về tử thần đang đến.
Hỡi Rechung, con và ta phải cùng đi
lên đỉnh Hy mã lạp sơn tuyết phủ.

Núi tội lỗi là đỉnh cao chất ngất;
tên thợ săn đau khổ nóng lòng thúc giục chó săn lên;
ấy là nỗ lực giết con nai tịch diệt;
phải gắng trốn vào mục tiêu thực tại;
kẻ ác nhân không nghĩ về tử thần đang đến.
Hỡi Rechung, con và ta phải cùng đi
lên đỉnh Hy mã lạp sơn tuyết phủ.

Trên ngôi nhà điêu tàn của xác thân hư giả
cơn mưa ngày giờ đổ xuống
trận mưa năm tháng đập lên.
Ấy là nỗ lực tiêu diệt sự điêu tàn của thân xác,
phải dừng cơn mưa rào sẵn sàng để chết;
kẻ ác nhân không nghĩ về tử thần đang đến.
Hỡi Rechung, con và ta phải cùng đi
lên đỉnh Hy mã lạp sơn tuyết phủ.

Biển thế gian là vực sâu thăm thẳm
mà đứa trẻ thơ tri thức phải bơi.
Ấy là nỗ lực đẩy lui những sóng cao ảo tưởng;
phải gắng đến đảo tâm tự tại;
kẻ ác nhân không nghĩ về tử thần đang đến.
Hỡi Rechung, con và ta phải cùng đi
lên đỉnh Hy mã lạp sơn tuyết phủ.

Đồng ân ái là khoảng trời rộng rãi;
vũng sình lầy hôn phối, vực thẳm sâu;
ấy là nỗ lực hồi sinh con bò thù ghét;
phải gắng theo đuổi trầm tư về tự tại;
kẻ ác nhân không nghĩ về tử thần đang đến.
Hỡi Rechung, con và ta phải cùng đi
lên đỉnh Hy mã lạp sơn tuyết phủ.


KHÔN NGOAN BẤT CHỢT

18
Ban đầu vợ là nữ thần hoa cười nụ đẹp
và chồng là kẻ chiêm ngưỡng mặt nàng không bao giờ chán.
Chẳng bao lâu nàng trở thành ác quỷ với đôi mắt giống tử thi,
nếu chàng mắng nàng một, nàng mắng lại hai
nếu chàng giật tóc nàng, nàng sẽ kéo chân chàng;
nếu chàng đánh nàng bằng gậy, nàng sẽ đánh chàng bằng vá.
Cuối cùng nàng trở thành ác bà không răng
và lòng nàng hả hê với cái nhìn phẫn nộ.
Ta đã chối từ một thiếu phụ gắt gỏng quỉ ma như thế
và ta không cần tân nương trinh nữ làm chi.

19
Ban đầu con đẹp như vị thần nhỏ trong gia đình,
mà lòng yêu thương cha mẹ khôn ngăn.
Chẳng bao lâu con trở thành mối nợ bất nhân,
dù cha mẹ đã cho tất cả mà hắn không bao giờ thỏa mãn.
Hắn mang về nhà một cô gái con của một người xa lạ
và đuổi xua cha mẹ của hắn đi.
Mặc cha gọi hắn không màng thưa gửi,
mặc mẹ kêu hắn vẫn nín thinh luôn.
Cuối cùng hắn trở thành kẻ ở trọ tính tình nóng nảy
và xua đuổi cha mẹ bằng những lời phiền hà giả dối.
Bây giờ kẻ thù vùng vẫy này
phá phách không ngừng tâm trí của mẹ cha.
Ta đã khước từ một cuộc thanh toán thế gian như thế
và không cần có con cái nối dòng.

20
Ôi, tam bảo thiêng liêng, xin hãy là nơi con nương náu.
Ôi, đấng đại sư, xin ban cho ân huệ con hằng cầu nguyện.

Hỡi những kẻ an ủi tinh thần của thế gian
không chuyển hóa tâm các người bên trong
làm sao các người có thể chuyển hóa tâm kẻ mê bên ngoài?

Những vòm cây râm mát với những con công trắng xòe đuôi
giống như ánh sáng ngời lên trong khoảnh khắc.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Trà trong tu viện trên làng
giống như tính tự dối mình gọi mời tai họa đến.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Tính hối hả của thường nhân
giống như kẻ thù nóng giận tấn công sau lưng.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Ngựa, giàu sang và cừu, ba thứ phụ giúp cuộc sống này
giống như bão gió thổi rạp ngọn cỏ xanh.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Tấm thân hư giả chứa đầy tội lỗi này
giống như xác chết được mạ vàng.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Sự chủ tọa cuộc hội họp các ni cô đáng kính này
giống như cuộc hội họp của dân quê thiếu người quyền quí.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Sự khát khao thực phẩm của đại chúng này
giống như sự tịch thâu của đồn bót nhà đoan.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Bói toán, phù thủy và chiêm tinh, ba thứ giả hình này
giống như sự cãi bướng của những người dối láo.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Khúc hát lừa gạt người nghe này của các ngươi
giống như tiếng rên ư ử vì sung sướng của con mèo độc ác.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Đám môn đồ tụ hội hăng say này
giống như đoàn tùy tùng của nhà quí phái.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Giáo lý của tín ngưỡng vô nghĩa này
giống như sự dối láo của người lừa đảo.
Này, các ngươi không phải là kẻ an ủi loại này sao?

Kẻ nào sống bằng nghề nông mà không tìm tư lợi
nhưng tư lợi kẻ láng giềng là người đức hạnh rất nhiều.

21
Ba bài thơ kế tiếp hợp thành một bài duy nhất.
Một hôm Milarepa đang thiền định tại một trong những am ông ở, một con nai bị săn đuổi chạy đến tìm nơi trốn lánh. Sau đó là con chó săn hối hả đuổi tới ngay. Cuối cùng, người thợ săn tay cầm cung tên chạy đến, nhưng anh ta ngạc nhiên khi thấy con nai đang nằm bình yên một bên Milarepa và con chó săn nằm một bên, trong lúc Milarepa hát khúc hát đầu tiên xoa dịu lòng con chó. Người thợ săn quá xúc động vì bài hát, anh ta đã được chuyển hóa và trong khúc hát thứ hai, anh ta dâng cho Milarepa sự sống của con nai và tất cả những vật anh ta có và cầu xin sự hướng dẫn tinh thần. Milarepa đã hướng dẫn anh ta trong khúc hát thứ ba. Bỗng nhiên anh ta từ bỏ thế gian và trở thành một trong những môn đệ của Milarepa.

Con xin cúi đầu dưới chân chúa Marpa xứ Lhobrak.
Cầu nguyện người ban ân huệ cho tính sân hận
của tất cả chúng sinh được an tịnh.
Mi, con vật mang thân chó và sắc mặt của soái hoang,
này, vật mang thân chó và sắc mặt soái hoang, hãy lắng nghe ca khúc của Mila.
Bởi vì bất cứ vật gì mi thấy mi cũng cho là kẻ thù
và tâm mi bị bệnh sốt vì ý nghĩ sân hận xấu xa.
Mi đã sinh ra mang thân xác của một con chó ác
và mi ở trong cảnh khốn cùng, đói khát;
không có sự an tịnh những thống khổ đau đớn cho mi.
Nếu mi không ghì ôm sắc thể của bản tâm bên trong
lợi ích chỉ khiến mi ôm giữ sắc thân kẻ khác bên ngoài.
Đã đến lúc mi phải ôm giữ bổn tâm của chính mi.
Hãy từ bỏ tâm sân và ở lại nơi này.
Theo ý mi hiện tại,
bị nuốt chửng bởi hiểm nguy và đau khổ bất kham,
mi sợ rằng con nai sẽ chạy trốn sang triền núi bên kia
và hy vọng sẽ bắt nó trên triền núi gần này.
Bị cấu xé bởi hy vọng và sợ hãi mi lang thang khắp thế gian này.
Ta sẽ dạy mi sáu giáo lý của Sư tổ Naropa,(8)
và chỉ mi thiền định về biểu tượng Chân Không vĩ đại.

22
Con nai đen bên tay phải con được trang điểm bằng bộ sừng trắng màu vỏ ốc,
nếu giết đi, con sẽ được ăn ngon bảy ngày.
Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.
Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào đường cực lạc;
con chó Hồng Quang này vào đường giác ngộ
và Gonpodorje vào đường giải thoát.

Con chó Hồng Quang bên tay trái con,
nếu thả ra, nó sẽ bắt cả những những chim trời.
Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.
Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này đến cõi cực lạc;
con chó Hồng Quang này vào đường giác ngộ;
và Gonpodorje vào đường giải thoát.

Sợi dây thòng lọng màu đen này được tô điểm bằng chiếc vòng ở đầu mút,
nếu đem dùng, con sẽ bắt được cả bò từ phương bắc.
Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.
Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào đường cực lạc;
con chó Hồng Quang này vào đường giác ngộ;
và Gonpodorje vào đường giải thoát.

Chiếc áo da sơn dương này của người thợ săn được tô điểm bằng da dê nhuộm,
nếu mặc vào con sẽ thấy ấm ngay cả khi trên núi cao tuyết trắng.
Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.
Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào đường cực lạc;
con chó Hồng Quang này vào nơi giác ngộ;
và Gonpodorje vào nơi giải thoát.

Cây tên mảnh con cầm nơi tay phải này,
được tô điểm bằng bốn chiếc lông chim và mũi nhọn sơn son,
nếu bắn ra, nó sẽ đâm thủng bất cứ vật gì gặp phải.
Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.
Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào cõi cực lạc;
con chó Hồng Quang này vào nơi giác ngộ;
và Gonpodorje vào nơi giải thoát.

Cây cung trắng tuyệt hảo con cầm nơi tay trái này,
được tô điểm bằng vỏ cây phong và sợi dây trương Trung Hoa,
nếu buông ra, dây trương sẽ dậy sấm như rồng thiên vẫy khúc.
Điều này con: kẻ không cần, ôi thầy, con xin kính dâng lên.
Cầu mong thầy dẫn dắt con nai đen này vào nơi cực lạc;
con chó Hồng Quang này vào nơi giác ngộ;
và Gonpodorje vào nơi giải thoát.

23
Hỡi kẻ đi săn, bây giờ hãy lắng nghe ta hát.
Dù to như sấm động nhưng chỉ là âm thanh trống rỗng,
dù đẹp như mầu sắc móng trời nhưng sẽ tan biến đi;
dù thế gian làm vui tâm hồn nhưng đó chỉ là giấc mộng.
Dù những đối tượng của dục vọng đem lại lạc thú
nhưng chúng chỉ là nguyên nhân của những đảo điên.
Cái đó có hôm qua, hôm nay không còn nữa;
người đã sống năm qua, năm nay đã chết.
Người bạn trung thành trở thành thù địch;
thức ăn ngon trở thành thuốc độc;
kẻ lễ phép tạ ân trở thành xấc láo;
kẻ làm ác, tự hại chính mình.
Giữa trăm đầu người, đầu ngươi là đầu thân yêu nhất đối với ngươi:
bất cứ ngón tay nào của ngươi bị cắt ngươi cũng thấy đau;
trong nhà đông người, ngươi yêu chính ngươi.
Đã đến lúc để ngươi ngẩng đầu lên trong độc lập;
cuộc sống phù du này sẽ biến mất rất nhanh;
đừng bỏ thực hành tín ngưỡng.
Thân nhân yêu mến ném ngươi vào vòng thế tục;
bây giờ đã đến lúc phải tin cậy đạo sư.
Hạnh phúc ở đời này mang lại hoan lạc trong đời sau;
đã đến lúc để thực hành thánh đạo

24
Rechung, môn đệ đắc ý của Milarepa, cuối cùng được thầy cho phép ra đi với sứ mệnh đến Ü, một tỉnh trung tâm Tây Tạng, nơi tọa lạc của kinh thành Lhasa. Trong bài thơ này, Milarepa khuyên dạy môn đệ những lời cuối cùng và chúc phúc cho Rechung. Trong bài kế Milarepa bi cảm cuộc ra đi của người môn đệ.

Ôi, thầy,[1] con ơi, con sẽ đến Ü châu hay không?
Hỡi thầy, nếu con đi đến Ü châu
đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về thức ăn.
Khi con có những ảo tưởng về thức ăn này,
hãy ăn thức ăn chánh định bất tận
hãy biết rằng tất cả những vật ngọt ngào đều hư ngụy
và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.
Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về áo y.
Khi con có những ảo tưởng về áo y này,
hãy mặc áo y lửa bên trong
hãy biết rằng tất cả những vật dịu mềm đều hư ngụy
và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về quê hương.
Khi con có những ảo tưởng về quê hương này,
hãy biến quê hương con thành quê hương chân lý
hãy biết rằng tất cả quê cha đều hư ngụy
và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về giàu sang.
Khi con có những ảo tưởng về giàu sang này,
hãy biến sự giàu sang của con thành bảy sự giàu sang cao cả, (9)
hãy biết rằng tất cả sự giàu sang của thế gian đều hư ngụy
và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về bạn bè.
Khi con có những ảo tưởng về bạn bè này,
hãy biến bạn bè con thành nguồn trí huệ tự tuôn trào,
hãy biết rằng tất cả bạn bè thế gian đều hư ngụy
và hãy xem tất cả hiện tướng như chân thân.

Đôi khi con sẽ có những ảo tưởng về đạo sư.
Khi con có những ảo tưởng về đạo sư này,
hãy nguyện cầu đạo sư ngự mãi trên đầu con,
và hãy nhớ trầm tư về lửa ấm bên trong.
Đạo sư cũng chỉ là một giấc mơ hư ngụy.
Hãy biết rằng tất cả đều là ảo tưởng, nghe con.

Núi Gampoden phương đông
giống như vua ngự ngai vàng;
lưng núi giống như màn lụa trắng;
mặt núi giống như đống vật quý giá;
đỉnh núi giống như vương miện ngọc ngà;
bảy đỉnh đồi giống như bảy đại thần áo mão cúi chầu;
và toàn thể giống như biểu tượng thiêng liêng bằng gỗ thếp vàng.
Trên đôi vai núi này là những nơi con phải chuyển hóa.
Từ đó con hãy đi làm lợi ích cho loài người.
Con ơi, con phải tiến hành phận sự con đi.

25
Đứa con yêu dấu đã được cha mẹ yêu thương ấp ủ,
có thể phụng sự họ trăm lần trong lúc tuổi già,
người đệ tử không lập trọng thệ ẩn tu,
có thể phụng sự cho thầy trăm lần lúc tuổi già.
Nhưng người cha này giống như con chó già bị bỏ lại chốn hoang vu,
và đứa con giống như con bạch sư đã đi đến Ü châu.
Người cha giống như con cáo già bị bỏ lại chốn hoang vu và đứa con giống như cọp gấm trẻ đã đi đến Ü châu.
Người cha giống như gà trống trong sân trại bị bỏ lại chốn hoang vu
và đứa con giống như chim linh thứu oai hùng đã đi đến Ü châu.
Người cha giống như bò già bị thiến với chiếc cổ co ro bị bỏ lại chốn hoang vu
và đứa con giống như bò mộng sừng cong đã đi đến Ü châu.
Hình dáng nó đẹp hơn thiên thần đã đi đến Ü châu;
ngôn ngữ nó dịu dàng hơn lụa đã đi đến Ü châu;
tư tưởng nó nhiều màu sắc hơn gấm thêu đã đi đến Ü châu;
hương thơm nó ngào ngạt hơn chiên đàn đã đi đến Ü châu.

26
Trong bài thơ này Milarepa đã quở trách những con quỷ đã quấy phá cuộc thiền định của ông và ông cầu cứu đến uy lực của thầy ông, Marpa, để chống lại chúng. Ông giục chúng đến Marpa để Marpa chuyển hóa cho và ông dạy chúng giáo lý Đại Thừa cao cả hơn giáo lý Tiểu Thừa vì giáo lý Đại Thừa có thể đáp ứng với tư tưởng của Bồ Tát, người đã đạt được giác ngộ, tự hiến mình trong công việc phụng sự nhân loại.

Hãy biết nơi dịch giả Marpa đã tinh luyện ngôn từ,
vị chúa từ ái vô song,
đang ngồi phô bày báo thân thanh tịnh
trên tòa sen ba cánh
như chòm tóc ngọc trên đầu người.
Ngài phóng hào quang ân huệ
trong sáng hơn mặt trăng trên bầu trời quang đãng
làm nở đóa hoa xinh đẹp
của sen lòng nồng nhiệt độ nhân,
và khiến cho nhụy hoa mính tính hãi hùng.
Các ngươi có nhìn thấy ngài không, hỡi những ma thần
bị trần gian buộc ràng bằng những con mắt liếc?
Nếu các ngươi không nhìn thấy ngài bởi vì
sự vô minh vĩ đại trong các ngươi
và những tội lỗi ưu phiền của các ngươi
từ những ngày trước của vòng tròn vô thủy che khuất.
Trừ phi các ngươi sám hối tội lỗi
các ngươi không phải là những chiếc bình
chứa nổi sự sâu xa của giáo pháp.
Xưa kia các ngươi bị thù hận thiêu đốt
nhưng từ đây các ngươi phải tu sửa
những con đường xấu xa, lừa dối của các ngươi,
nếu các ngươi tự buộc mình vào tín ngưỡng với lời trọng thệ.
Biết rằng giáo lý này không có kết quả nào khác hơn
trừ phi các ngươi suy tư kỹ về nguyên nhân và hậu quả
của mọi hành vi thiện ác,
các ngươi sẽ chịu những khốn khổ vô cùng nơi địa ngục.
Ta cầu mong các ngươi nhớ phải thận trọng trong những việc nhỏ,
vì dù nhỏ chúng vẫn có thể có ảnh hưởng nhiều.
Trừ phi các ngươi nhìn thấy những đối tượng khoái lạc của giác quan
đầy tội lỗi, và tiêu diệt được dục vọng từ bên ngoài
các ngươi sẽ thoát khỏi tù ngục thế gian này.
Ta cầu nguyện cho các ngươi biết trong tâm
tất cả đều hư huyễn
và hãy tin cậy vào sự trợ giúp của lời dạy này
khi bất cứ việc gì xảy đến.
Trừ phi các ngươi bày tỏ lòng biết ơn bằng hành động
với những chúng sinh từ ái của sáu đường (1)
đã sinh ra các ngươi trong những đời trước,
các ngươi hãy chia xẻ sự lầm lạc của Tiểu Thừa.
Vì thế ta cầu nguyện tình thương vĩ đại dạy cho các ngươi giác ngộ.
Nếu các ngươi lắng nghe và thực hành những lời khuyên dạy quí báu này
các ngươi sẽ trở thành hiền nhân của Đại Thừa Phật Giáo; chúng ta sẽ là anh em trong quán tưởng, tu hành
đạo chúng ta trong đời này sẽ là một và giống nhau;
và trong các cõi thanh tịnh siêu việt
nơi đức năng viên mãn
chúng ta sẽ gặp nhau: nghi ngờ đã hết.

27
Tám phi thiên thần nữ đến cầu Milarepa chỉ dạy, ông đã giáo huấn họ trong bài hát này. Các nữ thần này tương tự như các thiên nữ của Phật Giáo, và họ cũng xem thường các định luật luân hồi thông thường. Họ có thể hiền lành hay hung dữ và thay đổi tuỳ theo mỗi hoá thân; khi hung dữ họ phải được khuyên răn để trở thành hữu ích. Để đạt được điều này, Milarepa tán khuyên họ đồng nhất hoá chính họ với thiện năng, như được tiêu biểu bằng vị thần giám hộ của ông, ông sẽ dẫn dắt họ vào chính đạo bằng uy lực bí mật. Rồi nếu họ chịu thiền định về tri thức đã truyền dạy cho họ như là chân không, họ sẽ bất ngờ đạt được giác ngộ.

Cúi đầu đảnh lễ Marpa xứ Lhobrak.
Ta cầu mong những tặng phẩm tinh thần
từ ân huệ cha và thầy ta ban xuống.
Hỡi tám nàng con gái đẹp của thần linh,
ta đã vui hưởng trầm tư sau khi các nàng dâng cơm trắng vì thế cuộc tịnh dưỡng này đã làm cho ta thêm sùng tín.
Để tạ ân, ta sẽ dạy giáo lý cho các nàng,
hãy lắng nghe và áp dụng nơi lòng.
Vương quốc của chư thần thanh tịnh nhất
mặc dù nó dường như hư không
và sự tinh nghịch dịu dàng của chư thần nữ trẻ
mặc dù đó là cảnh vui vẻ nhưng chóng tàn;
ảo ảnh hư ngụy lường gạt nhãn quan
mặc dù đem lại niềm vui lớn, nó đưa dẫn đến diệt vong;
Và sự đau khổ của sáu loại chúng sanh nơi trần thế
khi xét đến, tim ta sẽ bị kích động nhiều.
Vì thế các nàng muốn thực hành thánh giáo
hãy cầu xin nơi Tam bảo chí tôn,
nơi trú ngụ (10) của lòng tin kính tín,
và hãy suy tư về sáu loại chúng sinh vì trước kia
đã sinh ra các nàng trong vòng luân hồi sinh tử.
Hãy cúng dường cho chúa cho thầy
hãy bố thí cho kẻ nghèo thiếu thốn
và hãy dành đức tâm để lợi ích loài người.
Hãy luôn luôn trầm tư về sự bất định của giờ chết.
Hãy tin rằng bản thân các nàng là vị thần hộ mệnh
và hãy hành động theo lời của uy lực mật ngôn;
hãy trầm tư tri thức như chân không vượt qua toàn hiểu biết
và hãy ý thức luôn luôn về chân lý.



[1] “Thầy” ở đây là danh từ chỉ tước hiệu trong đạo chứ không chỉ người dạy mình, có lẽ tiếng Tây Tạng gọi là Lama (Lạt ma).

NGỤ NGÔN

28
Hỡi những người nghe được ban phúc từng người
trong chén thánh của thân này hợp tạo
là xác thân của thần tính bẩm sinh.
Nếu các ngươi có thể nâng cao ngọn đèn tịnh quang
các ngươi mới thật sự soi sáng được chân thân nội ngoại.

Trong tổ chim ưng của tư tưởng phân biệt
là con ó con giác ngộ.
Nếu các ngươi có thể tặng đôi cánh tri thức và nghệ thuật
các ngươi mới thực sự tung bay trong bầu trời toàn tri.

Trong núi tuyết uy nghi của thân này
là con sư tử phân biệt.
Nếu các ngươi có thể trầm tư không thiên lệch về đối tượng của tâm và thức
các ngươi mới thực sự siêu việt được thế giới này và thế giới bên kia.

Trong biển cả của vòng tròn bất giác
là chiếc thuyền bé nhỏ của sáu loại chúng sinh (1).
Nếu các ngươi có thể bước lên chiếc thuyền lớn ba thân(5)
các ngươi mới thực sự được cứu vớt khỏi sóng thần đau khổ.

Trong xác thân này, nơi ác niệm của thức quan thao túng
là tên cắp đánh cướp của chúng sự cứu vớt.
Nếu các ngươi có thể bắt hắn bằng chiếc nút thòng lọng tinh khôn
các ngươi mới thực sự thoát vòng sợ hãi. 

Trong chân thân giống như bầu trời này
là châu báu lấp đầy tất cả dục vọng và cần cầu.
Nếu các ngươi có thể bình tĩnh trầm tư
như thế các ngươi mới thực sự hái được ba thân như trái chín.

Trong sự canh giữ lâu đài thế gian này
tất cả loài người đều bị xiềng xích.
Nếu các ngươi có thể tự giải thoát bằng sự khôn khéo của đạo sư
các ngươi mới thực sự không là tù nhân nữa.

Trong đấng đạo sư giống như viên ngọc vô giá
là giòng thánh thủy của suối nhủ khuyên.
Nếu các ngươi có thể uống được nước suối này với đức tin kiên định
mới thực sự làm các ngươi đỡ khác

29
Hỡi cha, kẻ chiến thắng vinh quang đoàn quân quỷ sứ,
con xin kính chào người, hỡi dịch giả Marpa.

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,
ta là con của loài bạch sư gầm thét.
Trong lòng mẹ ta, ta đã hoàn thành ba lực của tâm; (3) trong những năm thơ ấu ta đã ở trong hang cọp;
những năm tuổi trẻ ta đã canh giữ lối vào hang;
trong những năm trưởng thành ta đã bước đi trên những vùng tuyết giá hoang vu.

Dù bão tuyết quay cuồng ta không biết sợ;
dù vực thẳm ngoác mồm ta chẳng hãi hùng.

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,
ta là con của chim ưng, vua của các loài cầm điểu.
Ngay trong trứng, lông cánh ta đã mọc,
trong những năm thơ ấu ta đã ở trong tổ chim ưng;
trong những năm tuổi trẻ ta đã canh giữ lối vào cửa tổ;
trong những năm trưởng thành ta đã vút cánh chẻ đôi vòm trời thẳm.

Dù trời cao mênh mông ta không biết sợ;
dù thung lũng trần gian nhỏ hẹp ta chẳng hãi hùng.

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,
ta là con của loài kình ngư thân lấp lánh.
Trong lòng mẹ ta, ta đã đảo đôi mắt vàng;
trong những năm thơ ấu ta đã ở với bầy cá nhỏ;
trong những năm tuổi trẻ ta đã là con cá đầu đàn;
trong những năm trưởng thành ta đã lượn vòng theo mép bờ hồ.
Dù sấm gầm ác liệt ta không biết sợ;
dù lưỡi câu nhiều ta chẳng hãi hùng.

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,
ta là con của đạo sư Kargyudpa;
Trong lòng mẹ, đức tin đã xuất hiện trong ta;
trong những năm thơ ấu ta đã hướng về giáo pháp;
trong những năm tuổi trẻ ta đã là một môn đồ;
trong những năm trưởng thành ta đã thiền định trên núi cao.
Dù quỷ ma đe dọa ta không biết sợ;
dù chư thần hoá phép ta chẳng hãi hùng.
Con sư tử trong tư thế sắp phóng mình trong tuyết giá thấy lạnh nơi móng vuốt
có hoàn thành ba lực cũng chẳng lợi bao nhiêu.

Con chim ưng đang bay xuyên trời thẳm không thể rơi xuống
nếu con chim ưng vĩ đại bay qua trời thẳm rơi xuống
có lớn dần đôi cánh cũng chẳng lợi bao nhiêu.

Con kình ngư đang bơi trong nước không thể chết đuối;
nếu con kình ngư đang bơi trong nước chết đuối
có sinh ra trong nước cũng chẳng lợi bao nhiêu.

Tảng thiết thạch không thể bị viên đá bổ đôi;
nếu tảng thiết thạch bị viên đá bổ đôi
có tan thành mảnh nhỏ cũng chẳng lợi bao nhiêu.

Ta, Milarepa không sợ ma quỷ,
nếu Milarepa sợ ma quỷ,
có đạt được chân tri thực tại cũng chẳng lợi bao nhiêu.

  
 
30
Chí tâm đảnh lễ Marpa từ ái.

Mi tìm kiếm cơ hội để chế nhạo ta
và tự hiện thân trong hình thức hãi hùng,
hỡi thần đá của núi đá Lingwa,
phải chăng mi là con quỷ của những hành vi độc ác?
Ta không biết làm sao tạo khúc ca vừa ý
nhưng mi có thực lắng nghe lời ca chân lý hay không?

Trên cao kia, nơi vòm trời xanh thẳm
là vầng nguyệt và thái dương, đôi tinh cầu may mắn.
Từ lâu đài của các thần vô song đó,
phát hào quang cho hạnh phúc loài người.
Khi chúng lượn vòng quanh bốn đại lục mỗi ngày
cầu mong sao quỷ xâm thực không nổi dậy chống chúng như kẻ thù.

Trên đỉnh tuyết pha lê hùng vĩ phương đông
là tiếng gầm may mắn của loài sư tử trắng.
Nó là vua của tất cả thú quần thần
và như là dấu hiệu cao cả, nó không ăn thịt xác chết.
Khi nó xuống mép triền dốc đá xanh đen
cầu mong sao bão tuyết không nổi lên chống nó như kẻ thù.

Dưới tàng cây rậm mát của khu rừng phương nam
là con cọp gấm may mắn.
Nó là con thú bắt mồi vô địch
và như là dấu hiệu huy hoàng không dành cho đời nó.
Khi nó bước đi trên con đường vực thẳng bên vực sâu
cầu mong sao bẫy sập không nổi lên chống nó như kẻ thù.

Trong hồ Mapam lấp lánh màu bích ngọc phương tây
là con kình ngư bụng trắng may mắn.
Nó là kẻ nhảy múa trong thủy đại
và đảo tròn đôi kim nhãn một cách diệu kỳ.
Khi nó bơi đi tìm thức ăn thích thú
cầu mong sao lưỡi câu không nổi lên chống nó như kẻ thù.

Trên núi đá đỏ màu thần bí phương bắc
là con linh thứu may mắn, chúa của loài chim.
Nó là kẻ thấu thị trong loài có cánh
và trong sự khôn ngoan kỳ diệu, nó không cướp đoạt sự sống của ai.
Khi nó bay tìm thức ăn trên núi cao ba đỉnh
cầu mong sao bẫy thừng không nổi lên chống nó như kẻ thù.

Trên núi đá Lingwa, nơi chim linh thứu xây tổ
là nơi Milarepa được ban phước lành.
Hắn đang hoàn thành việc tốt cho đồng loại và chính hắn,
và như là dấu hiệu của chân lý, hắn đã từ bỏ thế gian
và đã giục tâm thức đến giác ngộ tối thượng.
Như là mục đích duy nhất khi hắn khao khát
thành Phật trong đời này và trong thân xác này,
hỡi thần đá Lingwa
cầu mong mi không nổi lên chống hắn như kẻ thù.

Khúc hát là sáu lần năm ba mươi
hình ảnh ví von kèm thêm lời giải thích.
Hỡi thần đá Lingwa, mi hiểu chăng chân lý
đã kết lời như những chi tiết này như chuỗi xích vàng?
Trong tích số những hành vi, mà mi đã gây bao tội nghiệp.
Mi đừng cần mẫn gia thêm vào nữa
mà từ đây mi phải chiến thắng ma tính ác tâm mi.
Nếu một người không biết tất cả là tâm
thì những quỷ dữ là tâm phân biệt sẽ có cả đoàn,
và nếu hắn không biết chính tâm là chân không
làm sao hắn tiêu diệt được đoàn quân ma quỷ?
Hỡi quỷ nữ ác độc, đừng làm hại, đừng làm hại,
đừng làm hại ta là kẻ đã đến lúc khởi hành.

31
Ta tạ ân thầy ta vì ưu ái của người
và cầu mong người vì từ tâm
mà ban cho hồn ta được chín muồi trong giải thoát.

Với các ngươi:
những tín đồ được phúc lành của đức tin đã ngồi tại nơi đây,
ta sẽ tặng sự khuyên nhủ quan trọng sâu xa trong lời hát,
hãy lắng tai và chăm chú lắng nghe.

Con sư tử trắng của những cánh đồng tuyết giá trên cao
đang há miệng giữa những đỉnh tuyết trắng phau
hẳn không sợ một con nào khác,
vì thói quen kiêu hãnh của nó là vươn mình giữa vùng tuyết lạnh.

Con linh thứu oai hùng của núi Drakmar hùng vĩ
đang xòe đôi cánh giữa khoảng trời cao rộng
hẳn không sợ rơi xuống vực sâu,
vì thói quen kiêu hãnh của nó là vút cánh chẻ đôi vòm trời thẳm.

Trong dòng sông và biển hồ dưới thấp
con cá kình mình lấp lánh lao đi
hẳn không sợ chết đuối,
vì thói quen kiêu hãnh của nó là lội bơi lấp loáng.

Trên những cành cây làm áo cho triền dốc núi Mon
những con khỉ đuôi dài và đuôi ngắn diễn trò khéo léo
hẳn không sợ rơi xuống dốc cao,
vì thói quen kiêu hãnh của chúng là diễn lắm trò vui.

Dưới những cành rậm lá của cây rừng
con cọp gấm Tây Thiên tỏ sự can đảm của mình
hẳn không biết sợ,
vì bản tính của cọp là khôn ngoan rực rỡ.

Trong những khu rừng của Singghala
Milarepa thiền định về chân không
hẳn không sợ cuộc trầm tư mình thất bại,
vì thói quen kiêu hãnh của Milarepa là nhập định lâu dài.

Trong chu kỳ thanh tịnh của tinh cầu chân lý
hắn vui hưởng kinh nghiệm chẳng cuồng điên
hẳn hắn không sợ sai lầm ý nghĩa,
vì thói quen kiêu hãnh của hắn là đứng trong thực tại.

Trong kinh nghiệm về sức sống lưu hành dòng nội hướng
hắn bực mình vì ảo ảnh đến cản ngăn
hắn như thế không lạc ngoài chân tri giải,
vì sai lạc là huênh hoang về tiến bộ.

Từ năng lực bẩm sinh của nhiếp tâm thành tựu
tuôn trào đầy cho hắn vô số tư tưởng cao siêu và hèn hạ
thế nhưng hắn không buông tâm theo tư tưởng
vì tâm là sân khấu buộc ràng vô số ý hiện ra.

Bằng năng lực chín muồi theo nhân quả
hắn ngồi nhìn chân thể của đức hạnh và thói hư
hẳn không bị quấy rầy trong chánh định
vì lời hắn nói là: "chân lý không sai" phân chia thiện ác.

32
Con tuấn mã của ta có nước nhanh của tâm phân biệt.
Nó huy hoàng trong những nùi lụa bình tâm,
nó mang làn da cừu thành công giữa cuộc đời hư ngụy
và chiếc yên loè loẹt của tự tri rực rỡ trên lưng,
được ba khổ thế gian (11) làm dây giàm buộc chặt.
Nó còn mang thêm dây buộc yên đuôi tri thức và nghệ thuật;
trên đầu nó là chiếc cương giữ cầm hơi thở
nơi hai mày phe phẩy tua vải nhiếp tâm
trên chóp mũi lúc bình minh, ngọ thiên, khi chiều xuống,
và trên trán nhô cao chòm lông bờm cơn lụt thanh bình bên trong.
Miệng nó được bộ cương thân huyền bí dắt đưa;
được thúc giục bằng chiếc roi dòng tâm tuôn chảy.
Nó được chứng minh đầu tiên trong chủng loại, trên đồng bằng kinh nghiệm siêu việt.
Như thế đó là con ngựa của hiền nhân ta.
Nếu chạy trốn nó sẽ thoát được đầm lầy thế gian này.
Nếu theo đuổi, nó sẽ đến được cõi trời hoàn toàn thanh tịnh.

33
Một du khách đến bên đường cầu xin lời khuyên của Milarepa. Anh ta đang chán đôi giày ống của anh ta làm bằng da nai đế nỉ mà người Tây Tạng thường dùng. Đôi giày được tô điểm bằng hình vẽ vui vui trên lụa và có nạm những nút đồng. Milarepa coi đôi giày như một biểu tượng thế gian và làm trở ngại hiền nhân.

Hãy nhìn xem cơ nghiệp ba vương quốc thế gian này
bị khâm liệm trong u minh mịt mờ bất giác.
Những đồng cỏ khát vọng là hố thẳm bùn sâu.
Những vũng lầy ganh tỵ tràn đầy gai nhọn.
Con chó dại nóng giận sủa vang, cắn đớp.
Vùng đá chởm kiêu mạn vươn cao trên đỉnh núi.
Khi ta đã lội qua dòng sông đời,
ta cầu nguyện cho ta được trốn trong đồng bằng cực lạc.
Trong những chiếc giày của ta đốm điểm mơ ảo ảnh mong manh
và đôi đế nỉ cố ý sai lệch của thế gian này
được kết chặt với nhau bằng tin tưởng vào sự động hành nhân quả.
Được nạm bằng những nút đồng đeo đuổi thành đạt
được gắn bằng ba móc khóa triền phược căn nguyên (12)
là đôi giày Trung hoa của hiền nhân ta đấy.

34
Hỡi kẻ bố thí đầy hơi kiêu mạn,
hỡi phú hộ Ngendzong, hãy lắng nghe ta hát. 

Suốt ba tháng mùa xuân
khi mọi người Tây Tạng cày ruộng họ
và ta, bậc hiền nhân, cũng cày ruộng của ta.
Trên mặt đất cứng đau khổ sơ nguyên
ta bón phân đức tin và tiên triệu
và tưới nước no nê bằng năm thứ cam lồ (13).
Là một nông dân đầy tin tưởng,
ta đã gieo hạt giống tự do không lầm lạc của suy tư.
Đã mắc ách vào cổ đôi bò siêu việt nhị nguyên
ta đã gắn hết những luống cày trí huệ,
và được dẫn dắt bằng kinh điển thiêng liêng
đã kéo chiếc cày tịch nhiên bất động,
đã dùng chiếc roi nhiệt tâm khoảnh khắc.
Hạt giống chắc và mạnh;
mầm non thánh tín sẽ bung lên;
bông lúa sẽ chín vàng đúng lúc.
Ngươi làm nông dân của thế gian này;
ta làm nông dân của trưởng thành vĩnh cửu.
Vào mùa gặt, chắc chắn chúng ta sẽ thấy gia tăng;
và khi mùa gặt xong, chắc chắn chúng ta sẽ đua nhau vui vẻ.
Khúc hát này được hát lên như một ngụ ngôn;
đây là khúc hát dân cày của ta.
Hãy tạo đức tin trong lòng ngươi, hỡi kẻ đầy hơi kiêu mạn;
hãy làm việc thiện cho chính ngươi và tích tụ những hành vi xứng đáng.

35
Hỡi kẻ bố thí đã hỏi dồn ta câu này sang câu khác,
ngươi là kẻ có thiện năng, hãy lắng nghe ta hát.
Ngươi biết hay không biết tên ta?
Nếu ngươi không biết tên ta,
ta là Milarepa.
Ta là người sám hối;
ta là người thiền định với hùng tâm tha thiết;
ta là hiền nhân đã quên phân biệt.
Tích trượng ta cầm tay này
đầu tiên đã mọc trên triền núi đá chập chùng bên Thiên Trúc,
sau đó được trì xuống và đốn ngã bằng con dao Ấn Độ
và cuối cùng được buộc bằng dây da mềm mại.
Nguồn gốc tích trượng là núi Mon phương nam;
được chuyên chở trên lưng con bò mộng kéo xe Đại Thừa;
được du hành qua nhiều phố chợ;
được cúng dường cho một kẻ tín thành.
Tích trượng của ta là như thế đó.
Ngươi hiểu hay không ý nghĩa tích trượng này?
Nếu ngươi không hiểu,
hãy lắng nghe ta giảng giải.
Chặt trúc tại gốc
có nghĩa là cắt đứt nguyên nhân cội rễ thế gian này.
Chặt trúc tại ngọn
có nghĩa là cắt đứt lỗi lầm do nghi ngờ tạo tác.
Cái ngã xuống chỉ cao hai thước mộc
có nghĩa là sự từ bỏ thế gian của phàm phu cũng chỉ cao như thế.
Tính tốt tự nhiên và dễ uốn của trúc
có nghĩa là thiện tính trường tồn của tâm nguyên thủy.
Nhựa sống ngọt ngào và màu sắc đẹp đẽ của trúc
có nghĩa là sự bồi dưỡng chân lý của bổn tâm.
Tính dễ uốn cong của thân trúc ngay thẳng
có nghĩa là sự thực hành của chân lý không sai.
Khe lõm trên thân trúc
có nghĩa là con đường hoàn toàn đưa đến dòng thánh tính.
Thân trúc bốn lóng
có nghĩa là sự tràn đầy của bốn hạnh vô lượng (14).
Thân trúc ba mắc nối
có nghĩa là sự toàn hảo của ba thân (5) bất hoại.
Màu sắc không thay đổi của trúc
có nghĩa là tính bất di dịch của chân lý căn nguyên.
Tính tròn của những lóng trúc
có nghĩa là tính bất sinh của chân lý.
Men bóng trắng mãi của trúc
có nghĩa là tánh không ô nhiễm của chân thân.
Tính rỗng của thân trúc
có nghĩa là tánh không của vạn vật bất hư.
Những vết lốm đốm trên thân trúc
có nghĩa là chân tri như là hạt giống của thể tánh duy nhất.
Những chấm đen nhỏ trên thân trúc
có nghĩa là hiền nhân áo vải Tây Tạng có trí phân biệt tinh vi.
Tiền nhân cao quý đời đời của trúc
có nghĩa là sự chăm chỉ thực hành pháp giáo của hiền nhân.
Vẻ đẹp xinh tươi của trúc
có nghĩa là nhiệt tâm hiền tâm vì tín ngưỡng loài người.
Mảnh sắt nhọn bịt đầu trúc trượng
có nghĩa là sự rong chơi của hiền nhân trong núi cao rừng thẳm.
Bao đồng bịt nơi tay nắm
có nghĩa là năng lực của hiền nhân khắc phục được các nữ thiên thần.
Những đinh sắt đóng trên thân trúc trượng
có nghĩa là sự kiên tâm vĩ đại của hiền nhân.
Chiếc khâu đồng gắn nơi đó
có nghĩa là hoàn toàn thừa thãi bên trong của hiền nhân.
Sợi dây da buộc nơi đó
có nghĩa là sự khôn ngoan nhu nhuyễn của hiền nhân.
Hai tao của dây da
có nghĩa là tiến trình của hiền nhân trên đường hợp nhất của hai thành một.
Sự xoắn vào nhau của dây nguyên thủy với một dây tương tự
có nghĩa là sự hợp nhất của hiền nhân với ba thân nguyên thủy.
Chiếc đĩa đựng của bố thí bằng xương gắn nơi đó
có nghĩa là sự rong chơi của hiền nhân khắp cả trần gian.
Chiếc túi nhỏ đựng bùi nhùi mồi lửa gắn nơi đó
có nghĩa là sự tình bằng hữu của hiền nhân hướng về mọi vật.
Chiếc tù và bằng vỏ ốc trắng gắn nơi đó
có nghĩa là linh phù về chân lý của hiền nhân.
Mảnh da cọp nhỏ gắn nơi đó
có nghĩa là sự hoàn toàn vô úy của hiền nhân.
Tấm gương soi gắn nơi đó
có nghĩa là cảnh bình minh của trực thức hoàn toàn bên trong hiền nhân.
Con dao bén gắn nơi đó
có nghĩa là sự cắt đứt những khổ não của hiền nhân.
Viên pha lê duy nhất gắn nơi đó
có nghĩa là sự khước từ tính bất tịnh của dục vọng của hiền nhân.
Xâu chuỗi kết bằng những hạt ngà gắn nơi đó
có nghĩa là dây tình thương của hiền nhân nối buộc với thầy.
Bộ chuông mõ gắn nơi đó
có nghĩa là sự rao giảng đạo lý của hiền nhân khắp miền khắp cõi.
Chiếc y bằng len trắng vải đỏ gắn nơi đó
có nghĩa là sự tạp đa của môn đệ hiền nhân.
Sự sử dụng trúc trượng trong tay hiền nhân
có nghĩa là sự chuyển hóa thường nhân bằng chánh pháp.
Tra vấn ý nghĩa của nó
có nghĩa là hướng ý về nơi tôn kính.
Họp mặt cùng ta
có nghĩa là việc làm của kẻ cầu nguyện xưa kia.
Bài hát về ý nghĩa của chiếc gậy trắng này
tất cả thần và người đều hiểu được.
Nhờ lòng tin chân thành khiến ngươi có được đạo nghĩa của nó,
hãy luôn luôn thực hành đức tin thánh linh trong hạnh phúc.

36
Ở đây Milarepa, bằng lối ngụ ngôn, bày tỏ những nguy hiểm mà người môn đệ có thể gặp phải trong cuộc nhiếp tâm quán tưởng xảo diệu và ông mô tả cách giữ mình cho người môn đệ khỏi bị nguy hại trong những cuộc tấn công ma quỷ như thế. Người môn đệ phải kiên gan và đứng vững, dùng uy lực của thần chú huyền bí mà thầy đã dạy buộc những kẻ thù ma quỷ phải phục tòng rồi lại dẫn dụ họ, như thế tâm người môn đệ sẽ được an tịnh và thấy được cảnh an lạc.

Nơi phương đông trong đế quốc Trung Hoa huy hoàng
một thiếu phụ Trung Hoa dệt lụa.
Nếu con thoi mang sợi chỉ bên trong của nàng không sai lệch
nàng sẽ không chán nản vì cơn gió thời gian nhanh chóng bên ngoài,
nhưng nàng làm việc với sự chăm chú bên trong
nàng sẽ hoàn thành tấm lụa của nàng.

Nơi phương bắc trong vương quốc Hoa Hạ
một chiến sĩ vô địch đi đến chiến trường.
Nếu người chiến sĩ không đứng lên chống lại thế giới ma quái bên trong
hắn sẽ không sợ đoàn quân của Gesa bên ngoài,
nhưng hắn tự bảo vệ mình bằng thuật trừ ma quái
hắn sẽ chiến thắng vinh quang.

Nơi phương tây trong vương quốc Ba Tư trũng thấp
là cổng thành bằng đồng của đoàn chiến sĩ du mục.
Nếu biển đồng tan chảy bên trong không được khuấy đều
nó sẽ không sản xuất được tên súng bên ngoài
nhưng thoát khỏi đường nứt bên trong
nó sẽ chống lại cuộc tấn công của địch.

Nơi phương nam trong miền đất Népal sấm sét
chiên đàn hương đứng xoa dịu giữa rừng.
Nếu lưỡi rìu quái ác không bủa vào bên trong
nó sẽ không bị bổ đôi bởi lưỡi búa của tiều phu núi Mon bên ngoài.
nhưng chống lại tất cả sức tàn phá bên trong
nó sẽ lớn cao trong rừng rậm.

Nơi cô tịch Chubar xứ Drin
là mi, Milarepa, kẻ trầm tư thiện nghệ.
Nếu không tạo sự phân biệt bên trong thành con quỷ thù địch
mi sẽ không sợ sự tấn công của ma quái bên ngoài,
nhưng thanh tịnh bổn tâm bên trong
mi sẽ thành hiền nhân đích thực.

Mi đã tự tập kiểm soát những tưởng tượng nhục cảm của mi
và trên núi đá chập chùng của chân không chân lý
mi đã tìm thấy lâu đài trầm tư tịch nhiên bất động;
đã mặc vào chiếc áo giáp giác ngộ tâm linh
và đã mài bén vũ khí trí huệ và từ tâm.
Mặc dù những đoàn quân quỷ sứ vây quanh
mi sẽ không chạy trốn vào thị thành khoái lạc.
Mặc dù thế giới diêm vương nổi dậy chống mi như kẻ thù mi sẽ không chiến bại với đoàn quân diêm chúa
nhưng mi sẽ chiến thắng rất mực vinh quang.
Song nên biết bề ngoài ước mơ của ngoại vật là kỳ diệu,
và sự nhiếp tâm tịch tĩnh bên trong gây nhàm chán,
lòng ham muốn lạc thú giác quan là người bạn đồng hành trường thọ,
và khi mơ chìm trong dòng ảo tưởng chảy qua tri thức
con quỷ phân biệt tinh ranh tìm kiếm phương tiện thù hằn,
bao giờ cũng nằm chờ trên ngõ hẹp giữa hố thẳm hy vọng và sợ hãi
nó có thể bắt mi bằng chiếc nút thòng lọng ích kỷ.
Nhưng mi hãy canh giữ trí nhớ và ý thức mi
và, là kẻ giỏi canh gác lâu đài, mi sẽ là hiền nhân.
Bài hát này gồm bốn ẩn dụ với lời giải thích thành năm.
Lời hát được kết thành khéo léo như chuỗi ngọc nạm trên mặt dây chuyền,
và lời giảng giải là tấm gương đẹp tặng linh hồn.
Hãy học cho hiểu, hỡi những môn đồ may mắn.

37
NHIỆM VỤ CỦA CON SỐ

Sáu bài thơ sau đây được chọn để chứng tỏ sự quan tọng của những con số trong giáo lý của Milarepa. Tâm hồn người Ấn Độ được phú bẩm tính phân tách và xếp loại, điều này thường khiến độc giả Tây phương nản lòng. Chúng ta gặp nhiều thí dụ điển hình như thế trong bản văn này: hai công đức, ba mối triền phược, tám đường thế gian, v.v.. Nhưng đối với Milarepa, con số có một ý nghĩa siêu hình như đối với Aristotle; mỗi một số nguyên được giao phó một nhiệm vụ riêng trong sự cấu tạo vũ trụ, vai trò của số ba có một tầm quan trọng đặc biệt. Như trong mặc khải của đức Christ, Milarepa dạy nhất thể cũng là một thể ba ngôi.


Các đạo sư; Tilopa, Naropa và Marpa là ba:
ba người này là đạo sư của Mila.
Nếu ngươi thích ba đạo sư đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Đạo sư, thần giám hộ và nữ thiên thần là ba:
ba nơi này là nơi thờ phượng của Mila.
Nếu ngươi thích những nơi thờ phượng đó,
hãy theo người áo vải che thân.


Phật, Pháp và Tăng là ba:
ba nơi này là nơi nương náu của Mila.
Nếu ngươi thích ba nơi nương náu đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Quán tưởng, thiền định và viên mãn là ba:
ba việc này là bài tập của Mila. 
Nếu ngươi thích ba bài tập đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Núi khoáng thạch, núi tuyết trắng và núi đá đen là ba:
ba núi này là nơi thành đạt của Mila.
Nếu ngươi thích những nơi thành đạt đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Nai, sơn dương và cừu núi là ba:
ba con này là gia súc của Mila.
Nếu ngươi thích ba loài gia súc đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Mèo hoang, beo rừng và chó sói là ba:
ba con này là chó giữ cửa của Mila.
Nếu ngươi thích ba loài chó đó,
hãy theo người áo vải che thân.


Sáo đen, gà rừng và diều hâu là ba:
ba con này là gia cầm trong sân của Mila.
Nếu ngươi thích ba loài gia cầm đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Mặt trời, mặt trăng và tinh tú là ba:
ba thứ này là ánh sáng của mắt Mila.
Nếu ngươi thích ba loại hào quang của mắt đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Quỷ, thần và ẩn sĩ là ba:
ba người này là láng giềng của Mila.
Nếu ngươi thích ba người láng giềng đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Khỉ, sóc và gấu là ba:
ba con này là bạn đùa giỡn của Mila.
Nếu ngươi thích ba người bạn đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Đại hạnh phúc, cảnh an lạc và siêu việt tư tưởng là ba:
ba cái này là nguồn an ủi của Mila.
Nếu ngươi thích ba nguồn an ủi đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Tầm ma, củ cải tía và bồ công anh là ba:
ba cây này là thực phẩm của Mila.
Nếu ngươi thích ba loại thực phẩm đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Nước đá tảng, nước băng hà và nước đất sét là ba:
ba thứ này là nước uống của Mila.
Nếu ngươi thích ba thứ nước đó,
hãy theo người áo vải che thân.

Hơi thở, thần lực và sinh lực là ba:
ba thứ này là y áo của Mila.
Nếu ngươi thích ba loại y áo đó,
hãy theo người áo vải che thân.


38

Ta ca tụng và tôn thờ bằng thân, khẩu, ý
dưới chân thầy, đại dịch giả Marpa,
là nơi cư ngụ tràn đầy mọi cần cầu và ước muốn
là núi cao đức hạnh huy hoàng.

Dẫn đạo, thiền định và an ủi: ba thứ này
gây nên đau khổ của phân chia.
Nếu ngươi muốn tựu thành vô phân biệt
ngươi biết thế nào là nhàn hạ ngu ngơ?

Tài sản, giàu sang và độ lượng: ba thứ này
gây nên triền phược sâu xa vào ba cõi (15).
Nếu ngươi muốn thoát dòng sông đau khổ
ngươi biết thế nào là dứt trọn mến yêu?

Tự dục, tự dối và lừa đảo, ba thứ này
gây nên sa đọa vào ba tuần địa ngục.
Nếu ngươi muốn được đường tự do thiên quốc
ngươi biết thế nào là tâm giữ thẳng ngay?

Giáo lý, tình bạn và tranh luận, ba thứ này
gây nên kiêu mạn, ghét ghen.
Nếu ngươi muốn cho lòng theo thánh đạo
ngươi biết thế nào lựa chỗ ngồi khiêm hạ?

Quê hương, địa vị và xem trọng dư luận, ba thứ này
phá hoại sự thiền định của hiền nhân.
Nếu ngươi muốn giữ gìn trí huệ
ngươi biết thế nào là bất sỉ hạ mình?

Chủ, tớ và môn đệ, ba thứ này
sinh ra sự nghiêm phạt cuồng điên.
Nếu ngươi muốn học hành cô tịch
ngươi biết thế nào là chủ tớ đều không?

Phù thủy, ảo thuật và ác ngữ, ba thứ này
gây hại cho cuộc sống hiền nhân.
Nếu ngươi muốn theo đuổi thánh đạo tối thượng
ngươi biết thế nào là hồng tước ôn nhu?

Bài hát về bảy phương thuốc chữa trị,
bảy nguyên nhân vi phạm thánh đạo này.
Lòng ngươi hãy bình minh đón nhận.
Hãy biết đạt tinh minh qua đức hạnh của mình.



39

Ôi, chúa, người dấu thần tính trong hình hài nhân thế
Hỡi dịch giả của những hạn từ khó dịch
Xin đảnh lễ người, ôi từ phụ Marpa.
Mặc dù con không phải là kẻ hát cho cảm quan nhóm lửa
Song vì người bảo: hát đi, hãy hát một bài
nên con hát bài tính bản nguyên vạn vật.

Sấm, chớp và mây phương nam là ba
Khi chúng đến, chúng đến tự trời cao
Khi chúng biến mất, chúng biến mất nơi trời cao.

Mống trời, sa mù và sương mù là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ hư không
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi hư không.

Nhựa sống, hoa màu và trái cây là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ trời cao
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi núi cao.

Rừng, hoa và lá là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ lòng đất
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi lòng đất.

Sông, bọt nước và sóng là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ biển sâu
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi biển sâu.

Ưa thích, ham muốn và ôm giữ là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ tự thức
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi tự thức.

Tự tri, tự ngộ và tự giải thoát là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ bổn tâm
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi bổn tâm.

Vô sinh, vô ngại và vô ngôn là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ thực tại
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi thực tại.

Hiện tướng, nhận thức và ác niệm là ba
Khi chúng đến, chúng đến từ hiền nhân
Khi chúng biến mất chúng biến mất nơi hiền nhân.

Khi ma quỷ là màn ảo thuật của tâm
thì hiền nhân sẽ bị dối gạt nếu cho là có thực
Không biết rằng những ảo tưởng của mình là hư không
vì cội rễ của hư huyễn đến từ bổn tâm
và kẻ nào biết hướng vào bổn tâm
sẽ thấy rằng tịnh quang bên trong không đến cũng không đi
và khi tâm bị hiện tướng của ngoại vật lừa gạt,
đã nhận rõ bản tánh của ngoại vật
nó biết rằng không có sự phân biệt giữa hiện tượng và chân không.
Lại nữa, khi tâm thấy rõ bản tánh của thiền định
nó cũng thấy rõ cái gì không phải là thiền định.
Như thế không có gì khác biệt giữa hai cái đó
vì tư tưởng phân biệt là cội rễ của hư huyễn
và tư tưởng như thế không thể là chân lý tối thượng.
Nhưng hiền nhân xem bản tính của hư không
là như tính của bản thể tâm thức và tất cả.
Mọi sự do bản tánh của hư không tạo tác
đều chứa mầm non chân thực tại
vì thế ngươi hãy làm như là sự quán tưởng chân lý bên kia tri thức
và như là sự thiền định bước vào tinh cầu tịch nhiên bất động
và như là sự viên mãn trọn tin vào tự tánh vô ngại
và như là thành quả tránh những phân biệt về hy vọng và sợ hãi.
Như thế hãy làm tròn thiên mệnh cao cả của ngươi.


40

Trọn tin vào bậc thầy trí huệ
gọi là đạo sư của thế giới này và thế giới bên kia.

Phát từ tâm vô lượng
là tích trữ lương thực cho cuộc du hành.

Nhìn thấy mặt trăng hiện lên giữa cõi vô minh của tri giác
là cất giữ một đạo sư.

Dâng hiến mọi vật đạt được cho tín ngưỡng
là cất giữ một con thuyền.

Nếu sự quán sát của ngươi thoát khỏi phân biệt
thì sự thiền định của ngươi thoát khỏi điên cuồng
và nếu sự viên mãn của ngươi hợp với đức tin
thì lời thánh thệ của ngươi làm hài lòng sư phụ;
và thánh quả của ngươi là không tiếc nuối trong giờ chết.

Kẻ an ủi, kẻ bố thí và môn đệ là ba
và ta, bậc hiền nhân, ít cần đến họ
nhưng các ngươi là kẻ thế gian cần đến họ nhiều.

Tôn kính, lễ phép và nịnh hót là ba
và ta, bậc hiền nhân, ít cần đến chúng
nhưng các ngươi là kẻ thế gian cần đến chúng nhiều.

Vật dụng, của cải và trò giải trí là ba
và ta, bậc hiền nhân, ít cần đến chúng
nhưng thế gian này cần đến chúng nhiều.

Tắm rửa, thanh tẩy và xét nét là ba
và ta, bậc hiền nhân, ít cần đến chúng
nhưng người tuổi trẻ cần đến chúng nhiều.

Đây là mười hai thứ không cần thiết
và ta không có thì giờ cho bất cứ thứ nào
như thế đó là sự khoe khoang của hiền nhân áo vải
và các ngươi, những người tụ hội nơi này
hãy khắc ghi vào tâm trí.

Nếu các ngươi ước mơ hạnh phúc
hãy thực hành thánh tín cho tròn.
Nếu các ngươi chán cảnh xôn xao
hãy trọn tin vào chốn hoang liêu cô tịch.
Nếu các ngươi có nhiệt tâm vĩ đại
hãy gửi mình vào chốn cô liêu.
Nếu các ngươi khát khao giác ngộ
hãy thiền định chuyên cần
và chắc chắn các ngươi sẽ chiến thắng kẻ thù ma quỷ.


41

Cúi đầu đảnh lễ các chúa, các thầy
Phật, Pháp và Tăng là ba
Ba nơi này là nơi trú bên ngoài.
Ta, kẻ vui nhận ba nơi làm chỗ trú
Còn gì bằng nếu các ngươi cũng vui trú như ta.

Đạo sư, thần giám hộ và nữ thiên thần là ba
Ba nơi này là nơi trú đời đời.
Ta, kẻ vui nhận ba nơi làm chỗ trú
Còn gì bằng nếu các ngươi cũng vui trú như ta.

Hơi thở, thần lực và sức sống là ba
Ba nơi này là nơi trú bí mật.
Ta, kẻ vui nhận ba nơi làm chỗ trú
Còn gì bằng nếu các ngươi cũng vui trú như ta.

Hiện tướng, chân không và vô phân biệt là ba
Ba nơi này là nơi trú của lý chân.
Ta, kẻ vui nhận ba nơi làm chỗ trú
Còn gì bằng nếu các ngươi cũng vui trú như ta.

Từ sự nhàm chán đau khổ không ngừng
trên nơi cư trú thối tha của xác thân giả hợp
cơn mưa ngày giờ đổ xuống
và trận mưa năm tháng đập lên.
Thực sự nơi cư trú thối tha của xác thân hư giả sẽ tự diệt
Phải chuẩn bị đón mưa bằng sự sẵn sàng để chết.
Giống như những chiếc bóng lê thê của ngày hấp hối
mặc dù người ta chạy trốn càng lúc càng xa
nhưng chúng đuổi theo mỗi lúc một gần.
Thực sự kẻ nào chạy trốn sẽ không thấy mình giải thoát.

Cảnh một tín đồ hấp hối
rao giảng sự can đảm hướng về đức hạnh
là hắn nhìn thấy niềm vui nơi mọi vật.

Cảnh một kẻ tội lỗi hấp hối
rao giảng sự khác biệt giữa đức hạnh và thói hư
là hắn nhìn thấy sự ăn năn nơi mọi vật.

Cảnh một kẻ giàu hấp hối
rao giảng rằng của cải giống như kẻ thù
là hắn thấy đủ sức đem cho nơi mọi vật.

Cảnh một người già hấp hối
rao giảng sự vô thường của cuộc đời
là hắn nhìn thấy nỗi buồn nơi mọi vật.

Cảnh một thanh niên hấp hối
rao giảng rằng cuộc đời không chấp nhận nhàn cư
là hắn nhìn thấy nhiệt tâm nơi mọi vật.

Hạnh phúc: quyền của mẹ cha
nhưng sao nên nếu những đứa con làm họ khổ?

Có sự ấm dưới áo lông mềm mại
nhưng sao nên nếu không chịu mặc vào?

Hoa màu gặt lên đánh tan nghèo khổ
nhưng sao nên nếu không chịu ra tay?

Tuấn mã có nước nhanh như gió
nhưng sao nên nếu kỵ mã không rành?

Tu tập đức tin khiến đời hạnh phúc
nhưng sao nên nếu không chịu thực hành.
Vì thế các ngươi hãy tự nhịn ăn để bố thí
và nhịn ngủ để thực hành đức hạnh
Hãy quan tâm những khổ đau nơi địa ngục
Hãy suy tư và thực hành thánh tín cho tròn.

42

Hỡi các ngươi những môn đệ trung thành đã đến nơi đây
Các ngươi có nhiệt tâm thực hành thánh giáo.
Trong thâm sâu hiện thể các ngươi có tin tâm có có?
Nếu các ngươi trọn tâm thực hành thánh giáo và kiên định niềm tin,
hãy lấy thế gian hư huyễn này làm thí dụ.
Hãy tra vấn tâm ý nghĩa thí dụ này
Các ngươi có xem hiện tướng bên ngoài như thí dụ hay không?
Khi các người xem hiện tướng bên ngoài như thí dụ
thì thí dụ đầu tiên là mưa đá trên cánh đồng bằng
thí dụ thứ nhì là đóa hoa ngọc bích
thí dụ thứ ba là nước lũ mênh mông
thí dụ thứ tư là hoa màu gợn sóng
thí dụ thứ năm là tơ lụa đầy nhà
thí dụ thứ sáu là ngọc châu quý giá
thí dụ thứ bảy là vầng trăng trong ba biến trạng
thí dụ thứ tám là một đứa con cưng.
Như thế cho đến khi nào các ngươi không còn lập lại những lời này
mà chỉ lập lại dư âm bài hát
nhưng ngôn ngữ không vén khai chân thật nghĩa.

Nếu các ngươi biết được ý nghĩa những lời này
- mưa đá trên đồng bằng biến mất nơi bầu trời
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Đóa hoa ngọc bích tàn tạ vì sương gió
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Nước lũ mênh mông bị lũng sâu nuốt chửng
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Hoa màu gợn sóng bị gặt đi
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Tơ lụa đầy nhà bị dùi nhọn đâm thủng
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Châu ngọc quý giá có được bị mất đi
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Vầng trăng trong ba biến trạng, mọc lên và lặn xuống
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

- Đứa con cưng được sinh ra rồi chết
cho một thí dụ về lẽ biến dịch.
Điều này thuận theo tánh ngắn ngủi vô thường.
Hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.

Tám thí dụ kỳ diệu này
ta giảng cho các ngươi, những kẻ đồng hành với ta
để đáp lại tấm lòng tôn kính đó.
Không có mục đích nào để cho hành vi có cơ tạo lập,
hãy thực hành thánh giáo trong bất cứ việc gì mình thích.
Trong lúc các ngươi nghĩ rằng các ngươi có thì giờ nhàn rỗi

thì cuộc đời các ngươi cũng sắp tiêu ma.
Bởi vì các ngươi đâu biết giờ chết sẽ đến lúc nào
vì thế hãy suy tư chân lý này và thực hành thánh giáo.


HẠT GIỐNG GIÁC NGỘ

43 
Đây, nơi cô liêu của Thành Trì Giác Ngộ[1]
Trên cao, đỉnh tuyết trắng của những tháp ma hùng vĩ;
dưới thấp, những kẻ bố thí trung thành cư ngụ;
phía sau, núi cao có màn lụa trắng che ngang;
phía trước, cây rừng tràn đầy mơn trớn trái tim
những đồng cỏ khô, và những bãi cỏ mênh mông trải rộng.
Bên những đóa sen xinh xắn ngào ngạt hương thơm
những con chuồn chuồn vo ve rộn rịp.
Trên bờ hồ, ao
những con chim nước quay đầu nhìn lại.
Trên những cành cây trải rộng
bầy chim xinh xinh véo von những hòa khúc ngọt ngào.
Trong gió hiu hiu chĩu nặng hương thơm
những cành cây cùng nhau khiêu vũ.
Trên những ngọn cây cao nổi bật
những con khỉ đuôi dài và đuôi ngắn
biểu diễn những hành động can đảm khéo thay.
Trên những cánh đồng cỏ xanh xum xuê rộng rãi
những con thú bốn chân gặm cỏ đó đây.
Những gã mục đồng
thích thú cất giọng hoà theo tiếng sáo.
Những tên nô lệ thèm khát của thế gian
lăng xăng mua bán, bày hàng trên mặt đất.
Nhìn cảnh này, ta, bậc hiền nhân
trên tảng đá quý có thể trông thấy đằng xa
xem hiện tượng như vô thường tương tự tánh,
và trầm tư khoái lạc giác quan như bóng vật dòng sông.
Ta nhìn đời này như ảo ảnh mộng mơ,
trầm tư về vô minh với tấm lòng trắc ẩn
và sống bằng dưỡng chất hư không.
Ta trầm tư trong chánh định không đảo điên
và tất cả hình ảnh tạp đa xuất hiện trước gương tâm.
A, vạn vật chứa đầy trong ba cõi (15)
đều hiện ra hư ảo tuyệt trần.

44
Hướng về chúa Marpa, đạo sư của ta, ta dâng lời cầu nguyện.

Các ngươi biết hay không biết những đạo hạnh nơi nầy?
Nếu các ngươi không biết những đạo hạnh nơi đây:
am này, thiên thành hạnh phúc của bậc xuất thế gian.
Trên cao, mây tím phương nam vần vũ;
dưới thấp, nước xanh dòng Tsangpo cuộn chảy;
phía sau, núi đá đỏ màu cao vút thiên không;
phía trước, những đồng cỏ với bông hoa sặc sỡ;
những con thú bắt mồi gầm thét trên bờ sông;
con kên kên uy dũng dang xa;
và mưa đẹp từ trời cao rơi xuống;
những con ong ca hát không ngừng;
nai, lừa nhởn nhơ đùa giỡn mẹ mẹ con con;
những con khỉ đuôi dài và đuôi ngắn diễn trò khéo léo;
chim sơn ca hòa giọng véo von, chim mẹ với chim con;
chim gà rừng thản dịu gáy vang;
và dòng suối thích thú thì thầm qua vùng đá chởm.
Những âm điệu róc rách này
là những người bạn đồng hành của tâm hồn.
Đạo hạnh nơi này không thể nghĩ bàn.
Ta đã diễn tả nỗi lòng vui tươi của ta trong khúc hát;
ta đã nói lời khuyên nhủ với môi ta.
Hỡi những kẻ bố thí nam nữ đã tụ hội nơi này,
hãy theo ta và hãy làm như ta:
hãy từ bỏ việc xấu và làm điều tốt đẹp.

45

Hỡi những kẻ may mắn và thánh thiện,
Các ngươi biết chăng đời này là giả dối?
Các ngươi biết chăng niềm vui là hư ngụy?
Các ngươi biết chăng thế gian là màn kịch đang qua?
Các ngươi biết chăng hạnh phúc là ảo mộng?
Các ngươi biết chăng ca tụng và phỉ báng là phi chân?
Các ngươi biết chăng hiện tướng chính là tâm?
Các ngươi biết chăng chính tâm là Phật?
Các ngươi biết chăng Phật là chân thân?
Các ngươi biết chăng chân thân là chân lý?
Khi các ngươi suy tư, tất cả hiện tướng được đúc kết trong tâm.
Hãy quán tâm ngày đêm.
Từ quán tâm sinh ra an lạc;
hãy ở trong an lạc đó.
Không gì thích hợp hơn đại tượng chân không
đối với sự xét xem thực tại;
hãy cư ngụ trong cõi bên kia hiểu biết.
Khi các ngươi đạt được bình tâm hữu ích
không bị những yêu mến nhiễu phiền,
dòng thiền định các ngươi sẽ thoát ngoài bản ngã;

bất cứ vật gì hiện ra cũng ở trong thể tánh trống không;
ý thức các ngươi sẽ thoát khỏi tưởng và phi tưởng;
các ngươi sẽ nếm sâu mùi vị của bất sinh.
Nếu các ngươi biết thiền định như thế
các ngươi phải thiền định về biểu tượng hiệu lực này
và hãy thiền định về sức sống tập trung.
Các ngươi phải thiền định về thần tính và tụng linh ngôn
hãy thiền định về nguồn thanh tịnh và những gì thanh cao như thế.
Đây là những phương tiện nhập đạo Đại Thừa.
Khi các ngươi thiền định về những sự vật đó chuyên cần,
mặc dù các ngươi không thành công trong việc nhổ rễ dục vọng và thù ghét,
các ngươi cũng biết rằng bất cứ vật gì hiện ra cũng là bổn tâm
và biết rằng chính tâm là chân không.
Nếu các ngươi không trú ngoài trí huệ
thì tất cả việc trì giới, cúng dường và những điều tương tự
như thế, đều viên mãn hoàn toàn.

46
Ô nữ thính giả Pedarbum, hãy lắng nghe, hỡi trinh nữ đầy đức tin, cao quý.
Nếu có vui trong sự thiền định về bầu trời;
mây phương nam là tạo phẩm huyền diệu của bầu trời;
nàng hãy tự khiến mình như bầu trời đó.

Nếu có vui trong sự thiền định về hai vầng nhật nguyệt;
tinh tú là tạo phẩm diệu huyền của hai vầng nhật nguyệt;
nàng hãy tự khiến mình giống như nhật nguyệt.

Nếu có vui trong sự thiền định về núi cao,
cây có trái là tạo phẩm huyền diệu của núi cao;
nàng hãy tự khiến mình giống như núi đó.

Nếu có vui trong thiền định về biển cả,
sóng nhấp nhô là tạo phẩm diệu huyền của biển cả;
nàng hãy tự khiến mình giống như biển đó.

Nếu có vui trong sự thiền định về bổn tâm,
tư tưởng phân biệt là tạo phẩm huyền diệu của bổn tâm;
nàng hãy tự khiến mình giống như tâm đó.


47

Với đạo sư thánh linh, người hộ trợ của ngươi,
lần lại lần hãy trọn tâm dâng lời cầu nguyện.
Khi ngươi thiền định về thần giám hộ và nữ thiên thần,
lần lại lần hãy thực hành bài tập sáng tạo trong cõi trời ánh sáng.
Khi ngươi thiền định về vô thường và sự chết,
lần lại lần hãy thiền định về tánh bất định của giờ chết.
Khi ngươi thiền định về đại tượng chân không,
lần lại lần hãy thiền định rằng nó bé vô cùng.
Khi ngươi thiền định về chúng sinh vì đã sinh ra ngươi trong các đời trước,
lần lại lần hãy tử tế tạ ân.
Khi ngươi thiền định về những lời rỉ tai sâu xa,
hãy phấn phát nhiệt tâm và năng lực.
Khi ngươi theo đuổi thánh đạo đến mức tối cao,
không có sự tôn xưng hay hạ bệ theo phương kế riêng tư.
Khi ngươi quán tưởng hợp với đức tin,
hãy quán tưởng một vật một thôi và đừng xao nhãng.
Khi ngươi tu dưỡng lòng tin thánh thiện,
hãy khước từ tất cả thế gian vi.
Khi chư thần đã cung cấp thức ăn
thì không cần phải vất vả, buồn phiền.
Hàng rào dục vọng không đem gia tăng tiến triển
là sự thực tri ân của chư nữ thiên thần.
Vì thế hãy ném tất cả tư tưởng cho tương lai;
vì thế trong tâm ngươi hãy từ bỏ đời này.


48

Đạo sư tuyệt hảo đại bi tâm;
ngôi tam bảo thiện trú (10);
chư nữ thiên thần, chư hộ vệ của đức tin trong hùng lực:
tôi xin cúi đầu chào tất cả.

Vì ta không biết làm sao tạo những khúc ca êm ái,
phúc lành của người cha huyền diệu nằm trên những lời này.
Trong chân lý lời ca, tư tưởng của Phật đà hiển lộ.
Hỡi Salleo, nữ thiền giả trung thành,
trong tấm gương đã lau sạch của tâm ta
hãy nhìn rõ cõi trời không tì vết.

Hãy thiền định trên núi cao, nơi hoang liêu cô tịch
đã được thánh hóa bởi những hiền nhân thuở trước,
và trong khi thần linh khiến nàng dừng chân ở đó
hãy ngắm nhìn bản tánh của tâm vương.
Ta sẽ giảng giải cách ngắm nhìn này,
vì thế hãy lắng nghe, hỡi Salleo, với tâm không điên đảo.

Đầu tiên khi nàng ở cửa vào pháp giáo,
hãy đổi lòng tin là việc rất cần;
hãy lấy núi trên cao kia làm thí dụ
và hãy thiền định rằng núi kia bất động.

Để đánh thức Phật hạnh
ta cầu nguyện cho nàng từ bỏ chiếc xe hạnh phúc khổ đau;
hãy lấy sông dưới thấp kia làm thí dụ
và hãy thiền định rằng sông kia tuôn chảy không ngừng.

Để thuận theo sự ban phúc của đạo sư
ta cầu nguyện cho lòng tôn kính của nàng không bao giờ dứt;
hãy lấy bầu trời này làm thí dụ
và hãy thiền định bầu trời không tâm điểm không chu vi.

Để quán tưởng chân lý thực tại
ta cầu nguyện cho nàng hợp nhất nghệ thuật với trí minh;
hãy lấy cặp song sinh nhật nguyệt kia làm thí dụ
và hãy thiền định về minh quang không bóng tối.

Để biết tất cả chúng sinh đã sinh nàng trong các đời trước
ta nguyện cầu nàng bao dung họ với bi tâm;
hãy lấy biển cả dưới kia làm thí dụ
và hãy thiền định rằng biển kia không bị nhiễu.

Để thấy rõ bổn tâm
ta cầu nguyện cho nàng làm phép gọi hồn theo lời dạy của đạo sư.
Hãy lấy trái đất vững bền này làm thí dụ
và hãy thiền định rằng đất không biến đổi.

Để trở thành bình chứa lời khuyên nhắn nhủ của ta,
ta cầu nguyện cho nàng có đức tin trong tinh thần nguyên thủy.
Hãy quán tưởng tâm này thực kỹ
và hãy thiền định là nó không minh bạch.

Để khiến cho thế giới hiện tướng mở ra như quyển sách
ta cầu nguyện cho nàng nghiên cứu kỹ bổn tâm,
hãy tích trữ lương thực của bố thí không ngừng
trong mọi lúc và bằng mọi cách.
Hãy trang sức bằng mỹ châu trì giới;
hãy mặc cho mình áo phước nhẫn tiên;
hãy leo lên yên huyền mã nhiệt tâm,
hãy vội vã vào thành phố xuất thần cao cả;
hãy giàu có bằng giàu sang trí tuệ.
Và đừng quên ân nợ của đạo sư
hãy dâng cúng một trăm lễ cúng dường tâm trí.
Rồi nàng có thể bước vào chân lý,
Ôi nàng trinh nữ đầy đức tin.

49
Vì quán tưởng chân chánh là quán tưởng bổn tâm
nếu con tìm quán tưởng ở nơi nào khác hơn tâm con
thực sự con chỉ như người tìm món trang sức bằng đất sét.
Ô thầy Lharje.

Vì sự thiền định chân chánh là không để cho trái phiền não hiện lên:
nếu trái phiền não hiện lên trong đó
thực sự con chỉ giống như người dùng đuốc giữa ban ngày.
Ô thầy Lharje.

Vì viên mãn chân chánh là không chấp cũng không bỏ thị kiến:
nếu con tiếp tục chấp nhận và chối bỏ thị kiến của con
thực sự con chỉ giống như con ong mắc lưới.
Ô thầy Lharje.

Vì kiên định chân chánh nằm trong định tính của an vui:
nếu con tìm kiên định ở nơi nào khác, không có gì tin được
thực sự cho chỉ giống như người đưa suối ngược lên đồi.
Ô thầy Lharje.

Vì quả chân chánh là nuôi dưỡng chân tri trong tâm:
nếu con tìm quả ở nơi nào khác, sẽ không thấy được
thực sự con chỉ giống như con nhái nhảy hư không.
Ô thầy Lharje.

Vì đạo sư chân chính là tra vấn bổn tâm:
nếu con tìm đạo sư ở nơi nào khác hơn tâm con,
thực sự con chỉ giống như người đánh mất tâm mình.

Sự thực tất cả hiện tướng là sở tạo của bổn tâm.
Ô thầy Lharje.



[1] Tây Tạng: Changchub-dzong

TUỔI GIÀ VÀ SỰ CHẾT

50

Ô thính giả Pedarbum,
hãy lắng nghe hỡi trinh nữ kính tôn đầy tín đức.
Cuộc du hành của những đời sau còn dài hơn cuộc du hành của đời này.
Nàng đã tạo sẵn lương thực để du hành?
Nếu nàng chưa tạo sẵn lương thực để du hành
hãy cầu nguyện cho nàng có tinh thần bố thí, cúng dường.
Kẻ nào bị kẻ thù gọi là bần tiện nhốt kín,
mặc dù hắn nghĩ hắn đã tự lợi, hắn chỉ tự hại đấy thôi.
Nàng biết chăng bần tiện là kẻ thù?
Nếu biết, nàng hãy biết ném nó lại phía sau.

Ô thính giả Pedarbum, sự đen tối của những đời sau còn đen tối hơn sự đen tối của đời này.
Nàng đã tạo sẵn ngọn đèn để soi sáng?
Nếu nàng chưa tạo sẵn ngọn đèn để soi sáng
hãy cầu nguyện cho nàng có ngọn tịnh đăng thiền định.
Kẻ nào ngủ mê trong bàn tay kẻ thù gọi là vô minh,
mặc dù hắn nghĩ hắn đã tự lợi, hắn chỉ tự hại đấy thôi.
Nàng biết chăng vô minh là kẻ thù?
Nếu biết, nàng hãy ném nó lại phía sau.

Ô thính giả Pedarbum, sự sợ hãi của những đời sau còn nhiều hơn sự sợ hãi của đời này.
Nàng đã tạo sẵn cho mình lối thoát?
Nếu nàng chưa tạo sẵn cho mình lối thoát
hãy cầu nguyện cho nàng đón nhận và thực hành thánh đạo.
Kẻ nào để mình bị kẻ thù gọi là thân nhân cản trở,
mặc dù hắn nghĩ hắn đã tự lợi, hắn chỉ tự hại đấy thôi.
Nàng biết chăng thân nhân là kẻ thù?
Nếu biết, nàng hãy biết ném họ lại phía sau.

Ô thính giả Pedarbum,
con đường của những đời sau còn dài hơn con đường của đời này.
Nàng đã tạo sẵn sàng một tuấn mã để đi?
Nếu nàng chưa tạo sẵn sàng tuấn mã để đi
hãy cầu nguyện cho nàng có nhiều nhiệt tâm và cần mẫn.
Kẻ nào bị kẻ thù gọi là giải đãi lung lạc,
mặc dù hắn nghĩ hắn đã tự lợi,
hắn chỉ tự hại đấy thôi.
Nàng biết chăng giải đãi là kẻ thù?
Nếu biết, nàng hãy biết ném nó lại phía sau.


51

Hỡi những kẻ hân hoan như thế trong các lâu đài và nhà lá,
hãy nhớ rằng khi chết các ngươi sẽ bỏ lại chỗ ở trống không.

Hỡi những kẻ hân hoan như thế trong đống lời chửi mắng,
hãy nhớ rằng khi chết các ngươi sẽ đến một nơi
mà các ngươi không có chỗ nương tựa hay dung thân.

Hỡi những kẻ hân hoan như thế giữa thân nhân và bè bạn,
hãy nhớ rằng khi chết các ngươi sẽ chia tay với tất cả người thân.

Hỡi những kẻ hân hoan như thế giữa tôi tớ, vợ con và giàu có,
hãy nhớ rằng khi chết các ngươi sẽ ra đi
với hai bàn tay trắng và thân thể trần truồng.

Hỡi những kẻ hân hoan như thế trong sức mạnh, sắc đẹp và tài năng,
hãy nhớ rằng khi chết các ngươi phải quán tưởng ba thân.(5)

Hỡi những kẻ hân hoan như thế trong khôn lanh và khỏe mạnh,
hãy nhớ rằng khi chết tri thức các ngươi đâu còn hữu dụng.
Hỡi những kẻ hân hoan như thế trong cao lương mỹ vị,
hãy nhớ rằng khi chết các ngươi sẽ van xin nước lã.
Vì thế, các ngươi hãy ghi nhớ những điều này và thực hành thánh tín.

52

Bây giờ, hỡi kẻ bố thí hãy chú ý thật nhiều
để tri giải tuổi già đau khổ:
khi các bộ phận của thân xác trở nên mong manh
thì sự đau khổ của tuổi già là tên phá hoại.
Hình hài thẳng đứng khi sinh ra gù xuống;
bước chân đi vững vàng trở thành lảo đảo.
Mái tóc quăn đen bóng khi sinh ra bạc trắng;
con mắt, giác quan trong suốt nhất, trở nên mờ;
cái đầu, chủ tể của tứ chi, lúc lắc;
lỗ tai nghe âm thanh lãng điếc;
vùng máu hồng trên đôi má khô đi;
chiếc mũi, tạo phẩm đẹp mắt, xẹp xuống;
hàm răng như vỏ ốc, là phần xương tốt nhất, rụng rơi;
chiếc lưỡi, vị vua ngôn ngữ, thều thào;
chí rận nhiều như nợ nần ẩn núp.
Mặc dù người già mời bạn bè yến tiệc, bè bạn chạy dài;
mặc dù hắn cố tránh thất vọng đớn đau, nó vẫn đến luôn;
mặc dù hắn nói sự thật cũng chẳng ai nghe.
Con cái hắn đã nuôi nấng yêu chiều lại oán hận hắn;
không ai tỏ ra biết ơn trước những sở hữu huy hoàng của hắn.
Hắn chậm chết, chúng nguyền rủa chẳng tiếc lời.
Trừ phi kẻ nào hiểu chân lý mới luôn luôn siêu việt tuổi già,
sự đau khổ của tuổi già vượt quá sức tưởng tượng của hắn.
Lãng quên thánh tín trong lúc tuổi già
là hình phạt của những hành vi thuở trước.
Trong khi một người còn thở
thực hành thánh tín là điều hay.


53

Ôi các ngươi, những chúng sinh hữu tình nơi trần thế!
Mặc dù các ngươi giữ gìn, giữ gìn thân xác các ngươi như ngọc quý
hoàn cảnh sẽ làm nó gãy đổ như cây già.
Hãy bình tĩnh đề phòng món nợ đòi không báo trước.

Mặc dù các ngươi tích tụ, tích tụ giàu sang như mật ngọt
hoàn cảnh sẽ làm nó tiêu ma như sương bạc phù vân.
Hãy bình tĩnh đề phòng món nợ đòi không báo trước.

Mặc dù các ngươi kết giao, kết giao với bạn bè như nai núi
hoàn cảnh sẽ đến với họ như tên thợ săn.
Hãy bình tĩnh đề phòng món nợ đòi không báo trước.

Mặc dù các ngươi ấp ủ, ấp ủ con cái các ngươi như trứng mỏng
hoàn cảnh sẽ đập vào chúng như viên đá trên đường.
Hãy bình tĩnh đề phòng món nợ đòi không báo trước.

Mặc dù nhan sắc các ngươi như hoa trong rừng thẳm
hoàn cảnh sẽ vây quanh nó như trận mưa rào.
Hãy khoảnh khắc chuyển ngộ toàn thể thế gian về món nợ đòi không báo trước.

Mặc dù các ngươi là bạn tốt, bạn tốt như mẹ với con
hoàn cảnh sẽ khiến các ngươi cãi nhau như thù địch.
Hãy đánh thức lòng thương xót chúng sinh về món nợ đòi không báo trước.

Mặc dù các ngươi ấm áp trong hạnh phúc như mặt trời
cảnh bất hạnh sẽ dập vùi các ngươi như gió lốc.
Hãy từ ái với kẻ nghèo vì món nợ đòi không báo trước.

Mãi mãi các ngươi những kẻ bố thí tụ hội nơi đây, nam và nữ,
nếu các ngươi không thực hành một tí đức tin thiêng liêng và cao cả
thì quãng đời lê thê các ngươi như một khúc hát lê thê
và nỗ lực các ngươi trong việc làm sẽ là một việc làm buồn khổ.

54

Con xin cúi đầu dưới chân thầy, Phật đà của ba thời tròn đủ.
Cầu nguyện người chuyển tâm của đại chúng nơi này vào chánh pháp.

Cuộc đời giống như bọt nước bập bềnh chóng vánh
và lòng mong cầu đạo sư không mãi mãi trường tồn.

Tính giải đãi giống như việc đánh cướp một ngôi nhà trống;
các ngươi không biết xa lìa cái trống ấy sao?

Tuổi trẻ giống như đóa hoa mùa hạ
nó sẽ không héo tàn và chết đi không báo trước?

Tuổi già giống như lửa bắt gỗ mồi;
các ngươi sẽ không biết rằng nó sẽ cháy đến tận tim?

Sinh và tử giống như mặt trời mọc lặn;
chúng sẽ nối tiếp hoài hoài giống như Phật đà đã dạy.

Sự ốm đau giống như chim non trong cơn bão;
các ngươi không biết rằng dũng lực sẽ tiêu ma?
Sự sống giống như ngọn đèn dầu;
thực sự nó sẽ không trường tồn mãi mãi với thời gian.

Sự ác giống như thác nước trong vũng sâu;
ta chưa từng thấy nó chảy ngược lên đồi.

Kẻ ác giống như thân cây độc;
ai bám vào ắt sẽ mất đời.

Sự chểnh mảng bổn phận giống như đậu ve bị băng sương phá hoại;
kẻ nào không làm việc phải, ắt sẽ hư thân.

Sự thực hành đức tin giống như canh tác ruộng đồng;
ai theo đuổi tận tâm sẽ gặt về điều lợi.

Bậc đạo sư giống như thuốc tẩm mật ong
ai tin cậy sẽ được nhiều lợi ích.

Lời trọng thệ giống như chiếc tháp của lính canh;
ai canh giữ thật tâm sẽ là người thừa kế.

Hành động thiện ác giống như vòng tròn hiện hữu;
ai phạm vào ắt sẽ thấy khổ đau.

Vòng luân hồi giống như gai tẩm độc;
ai nhào vô ắt đến số rồi.

Sự chết giống như bóng dưới mắt trời;
ta chưa từng thấy ai ngăn được.

Khi những điều như thế đến
mà xa lìa thánh tín
thì còn ai đủ sức bảo vệ mình?
Thánh tín có từ chư Phật đã viên thành,
nhưng giờ đây đâu còn ai ham thích.
Chuyện hôn phối thế gian gây ra hành động xấu
và hành động xấu cố gắng khao khát chuyện sinh.
Kẻ nào vui lòng nói về tín đức,
khi đối mặt với chân như
sẽ được tơi bời chuếnh choáng.
Ôi, kẻ bố thí, xin chớ thêm lời hùng biện
nhưng hãy thực hành thánh tín cho tròn.

BẢNG NGỮ VỰNG

1. Sáu loại chúng sinh: (hay Lục đạo chúng sinh) tiên, thần, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
2. Mười thánh hạnh (hay Thập thiện): (về thân) không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; (về ngữ) không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu; (về ý) không tham lam, không nóng giận, không ngu si.
3. Ba lực của tâm: quán tưởng, thiền định và viên mãn.
4. Nghi lễ sáng tạo và thành toàn: là nghi lễ gọi hồn một vị thần hiền hay dữ và dẫn dụ vị thần đó.
5. Ba thân (hay Tam thân): chân thân (hay pháp thân), báo thân và hoá thân.
6. Tám đường thế gian (hay Bát phong): được, mất, danh, ô danh, ca tụng, phỉ báng, hạnh phúc và bất hạnh.
7. Tám mối chướng ngại: tái sinh nơi địa ngục, nơi ngạ quỷ, nơi súc sinh, nơi thần A tu la, nơi người dã man, nơi người khiếm khuyết về tâm hay thân, nơi kẻ phản đạo và nơi Phật không xuất hiện.
8. Sáu giáo lý của Naropa: làm chủ luồng nội nhiệt, nhận thức về tánh hư huyễn của bản tánh, nhận thức về tánh hư huyễn của giấc mộng; cảnh an lạc của chân không siêu việt; sự dẫn đạo qua trạng thái trung gian giữa sinh và tử; và sự truyền ý thức từ thân này qua thân khác từ chỗ này sang chỗ khác. (Theo Book III bộ Tibetan Yoga and Secret Doctrines)
9. Bảy sự giàu sang (hay Thất giác ý): Ký ức trong sạch (Niệm); sự nhận thức tinh vi về giáo lý (Phân biệt); sự cố gắng trong sạch (Tinh tấn); niềm vui trong sạch (Hỷ); sự tịch mặc trong sạch (Khinh an); sự nhập định trong sạch (Định); và kinh nghiệm về chân không siêu việt (Hành xả).
10. Ba nơi nương náu và Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng.
11. Ba khổ (Tam khổ): khổ về thân, ngữ và ý.
12. Ba mối triền phược căn bản: tham, sân và si.
13. Năm nước cam lồ: giải thoát dục vọng, nhẫn nhục, hiểu biết, bền bỉ chịu đựng và khiêm tốn.
14. Bốn hạnh vô lượng: nghệ thuật hoàn toàn, cầu nguyện hoàn toàn, lòng can đảm hoàn toàn và giác ngộ hoàn toàn.
15. Ba cõi (hay Tam giới): dục giới, sắc giới và vô sắc giới.


No comments:

Post a Comment