"Đống xương tàn (của tất cả thể xác) của một người,
Xuyên qua các kiếp sống nầy trong một chu kỳ, Có thể cao vọi như một ngọn núi -
Bậc cao minh nói như vậy." Itivuttaka
Theo triết học Phật Giáo (Vi Diệu Pháp, Abhidhamma), ba hiện tượng có
thể xuất hiện cho con người thấy trong giai đoạn hấp hối là: Nghiệp (Kamma), Hiện Tượng Của Nghiệp (Kamma Nimita), và Biểu Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta).
Kamma (Nghiệp) là vài hành động tốt
hay xấu trong đời sống hoặc ngay trước phút lâm chung. Nếu người hấp hối đã phạm
một trong năm trọng tội (Garuka
Kamma, ngũ nghịch trọng tội:
giết cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, làm tổn thương Đức Phật và chia rẽ
Tăng Chúng), hoặc người ấy đã đắc một trong các tầng Thiền-na (Jhana), thì chứng nghiệm hiện
tượng Kamma trước khi chết. Những hành động thiện
hay bất thiện đặc biệt ấy có năng lực thật mạnh, chen vào, áp đảo tất cả các
hành động khác và biểu hiện thật rõ rệt trước mắt người hấp hối.
Nếu không có Nghiệp nặng như vậy thì có
thể tiến trình tư tưởng cuối cùng của người ấy đeo níu theo cái Nghiệp vừa tạo
liền trước khi chết, gọi là Asanna
Kamma, hay Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là hành vi cuối cùng hay hành vi
nào mà chập tư tưởng cuối cùng nhớ đến, liền trước khi lâm chung.
Nếu không phải Cận Tử Nghiệp thì có thể
là Thường Nghiệp (Acinna
Kamma), hành động tốt hay xấu
thường ngày, những việc ta thường làm hằng ngày, hay những việc mà ta thưòng nhớ
đến và ưa thích hơn hết. Trong trường hợp nầy, nếu người hấp hối là một bác sĩ
thì thấy đang săn sóc bệnh nhân, một tỳ khưu thì thấy đang thuyết pháp, một tên
trộm thì thấy đang cạy cửa, khoét vách v.v...
Nếu ba trường hợp trên không xảy ra thì
Nghiệp Tích Trữ (Katatta
Kamma), xuất hiện. Nghiệp
Tích Trữ gồm tất cả những trường hợp không có kể trong ba loại Nghiệp trên, những
hành động, tốt hay xấu, không quan trọng.
Hiện Tượng của Nghiệp - Kamma Nimitta - là những biểu tượng xuất hiện trong
tâm thức của người hấp hối dưới hình thức sắc, thinh, hương, vị, xúc hay pháp,
tức là những hình sắc, âm thanh, mùi, vị hay tư tưởng mạnh mẽ, quen thuộc,
trong nếp sinh hoạt hằng ngày, tốt hay xấu. Như người đồ tể thì thấy con dao
hay con thú chết, bác sĩ thì thấy bệnh nhân, người mộ đạo thì thấy các món lễ vật
v.v...
Biểu Hiện Lâm Chung - Gati Nimitta - là vài dấu hiệu có liên quan đến cảnh
giới mà người hấp hối sắp được tái sanh vào. Do đó, mặt người sắp lâm chung thường
lộ vẽ vui sướng hoặc đau khổ. Khi triệu chứng phát sanh, nếu là xấu thì ta có
thể sửa chữa kịp thời bằng cách giảng kinh hay nói pháp để tạo đối tượng tốt đẹp
trong tư tưởng người sắp chết. Những Biểu Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta) [1] thường là lửa, rừng, vùng sơn cước,
thai bào mẹ, thiên cung v.v...
Dầu
sanh trong trường hợp bất đắc kỳ tử, tiến trình tư tưởng của người sắp chết vẫn
diễn tiến và đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng ấy là một trong ba hiện tượng:
Nghiệp, Hiện Tượng của Nghiệp và Biểu Hiện Lâm Chung(Kamma, Kamma Nimitta,
và Gati Nimitta).
Thí dụ một người sắp lâm chung và tái sanh
vào cảnh người. Đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng là một vài hành động
(nghiệp) tốt. Tiến trình tư tưởng cuối cùng của người ấy diễn ra như sau: Luồng Bhavanga ngưng rung động trong hai chập rồi diệt.
Liền khi ấy Ngũ Môn Hướng Tâm (manodvaravajjana) phát sanh rồi tắt. Kế đến một giai đoạn
tâm lý quan trọng, tiến trình Javana, lúc bình thường phát sanh liên tiếp
trong bảy chập, nhưng trong tư tưởng cuối cùng của một kiếp sống thì chỉ phát
sanh trong năm chập liên tiếp. Tiến trình nầy không có năng lực tái tạo mà chỉ
có nhiệm vụ điều hòa kiếp sống mới (abhinavakarana). Trong trường hợp của người sắp
tái sanh trở lại vào cảnh người, đối tượng của luồng Javana cuối cùng là một nghiệp tốt, vậy là
tâm thiện. Đăng Ký Tâm(tadalambhana citta), có phận sự ghi nhận, có thể phát sanh
trong hai chập, mà cũng có thể không phát sanh. Đó là chập tư tưởng tối hậu của
kiếp sống hiện tại. Có người lầm tưởng rằng Tử Tâm (cuti citta) tạo điều kiện để tái sanh.
Trong thực tế, Tử Tâm không có nhiệm vụ đặc biệt nào. Chính tiến trình Javana tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp
đến.
Cái chết thật sự đến lúc Tử Tâm (cuti citta) chấm dứt. Kể từ đó tâm và vật thực (cittaja và aharaja) không còn tạo năng lực vật chất nữa.
Chỉ còn một loại năng lực vật chất phát sanh do hơi nóng (utuja) tiếp tục tồn tại đến khi cơ thể vật chất
tan rã [2].
Lúc Tử Tâm vừa tắt thì Thức-tái-sanh
phát hiện cùng một lúc cũng phát sanh "mười-thành-phần của thân",
"mười-thành-phần của giống" nam hay nữ, và "mười-thành-phần của
ý căn" [3].
Như vậy,
theo Phật Giáo, tánh chất nam hay nữ đã được quyết định ngay lúc bà mẹ thọ thai
và do Nghiệp tạo điều kiện, chớ không phải là một sự hòa hợp ngẫu nhiên của
minh châu và tinh trùng.
Sự diệt tắt của tâm trong kiếp vừa qua
là cơ hội để cho một tâm mới phát sanh trong kiếp sống kế. Tuy nhiên, không có
cái gì vĩnh cửu, nguyên vẹn đơn thuần, không biến đổi, được chuyển từ quá khứ
sang hiện tại. Cũng như bánh xe lăn tròn trên đường, mỗi một lúc chỉ có một điểm
của bánh xe chạm với đường. Nói một cánh chính xác, chúng ta chỉ sống trong từng
chập tư tưởng. Ta chỉ sống trong hiện tại và hiện tại nhất định phải trôi vào
dĩ vãng.
Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của
đời sống, trong một khoảnh khắc, mỗi chập tư tưởng, sanh, trụ, rồi diệt, và
trong khi diệt, chuyển tất cả năng lực và cảm giác đã ghi nhận cho chập tư tưởng
kế. Vậy mỗi chập tư tưởng mới gồm những năng lực tiềm tàng của chập trước và
thêm vào đó chút gì khác. Đến lúc chết, chập tư tưởng cuối cùng chấm dứt, để
nhường chổ cho chập tư tưởng kế phát sanh trong kiếp sống mới. Vậy, cái thức mới
gồm chứa tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ, vì tất cả những cảm giác trong
quá khứ đều được ghi nhận trong cái tâm biến đổi, và tất cả tiềm năng đều được
chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác, mặc dầu phần vật chất tan rã. Vì lẽ ấy, đôi
khi có người còn nhớ được kiếp quá khứ của mình. Nếu trí nhớ chỉ thùy thuộc khối
não, tức nhiên không thể có người nhớ được tiền kiếp của mình.
"Chúng sanh mới là sự biển hiện của
luồng nghiệp trong hiện tại, không giống hệt cũng không đồng nhất với chúng
sanh trước kế đó.
Những thành phần (ngũ uẩn) tạo nên
chúng sanh ấy không giống hệt cũng không phải là một với thành phần (ngũ uẩn)
đã tạo nên chúng sanh trước. Tuy nhiên, cũng không phải hoàn toàn là khác vì cả
hai cùng nằm chung trong một luồng nghiệp, mặc dầu biểu hiện dưới hình thức mới,
trong thế gian mà ngũ quan ta có thể thâu nhận, và ta cho là có một chúng sanh
mới."
Theo Phật Giáo, cái chết là sự chấm dứt
của đời sống tâm-vật-lý của cá nhân. Chết là sự
diệt tắt của: sinh lực(ayu) -
tức đời sống tâm linh và vật lý (jivitidriya), hơi nóng (usma) và thức (vinnana).
Chết không phải là sự tiêu diệt hoàn
toàn của một chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống
chúng sanh không bị tiêu diệt.
Cũng như ánh sáng đèn điện là biểu hiện
bề ngoài mà ta có thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện bề
ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ và ánh sáng có thể tắt,
nhưng luồng điện vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện trở lại nếu ta đặt
vào đấy một bóng đèn khác. Cùng thế ấy, sự tan rã của thể xác không làm xáo trộn
luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh của
công thức mới. Tuy nhiên, không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn
thuần, "chuyển" từ hiện tại sang tương lai.
Trong trường hợp nêu trên, người chết
tái sanh trở lại vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là một loại
tâm thiện. Thức-tái-sanh (patisandhi
vinnana) là tâm thiện ấy
phát sanh, tự nhiên chuyển đến hạt minh châu và tinh trùng tương xứng trong cảnh
người và tắt, nhường cho những chập Bhavanga nối tiếp.
Như thế, lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn
luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn. Ngay lúc chết những
chập tư tưởng vẫn liện tục kế tiếp như trong đời sống.
Hiện
tượng tử-sanh, chết và tái sanh, diễn ra tức khắc, dầu ở nơi nào, cũng như làn
sóng điện phát ra trong không gian được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu
thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái sanh, không
trãi qua một trạng thái chuyển tiếp nào (antarabhava). Phật Giáo thuần túy không chủ trương
có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi
thích hợp để đầu thai [4].
Trong kinh Milinda Panha (Mi-lin-đa Vấn Đạo), đức vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:
"Kính bạch Đại Đức, nếu có một người
chết ở đây và tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên và một người khác cũng chết ở
đây và tái sanh tại Kashmir, người nào sanh ra trước?
- Tâu Đại Vương, cả hai cùng sanh ra một
lượt. Đại Vương sanh ở đâu?
- Kính bạch Đại Đức, trong một làng nọ
gọi là Kalasi.
- Làng Kalasi cánh đây bao xa?
- Bạch Đại Đức, lối 200 dặm.
- Tâu Đại Vương, Kashmir cách đây bao
xa?
- Bạch Đại Đức, lối 20 dặm.
- Bây giờ xin Đại Vương hãy nghĩ đến
làng Kalasa.
- Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong.
- Và bây giờ Đại Vương xin hãy nghĩ đến Kashmir.
- Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong.
- Trong khi nghĩ đến hai nơi, nơi nào
tư tưởng của Đại Vương đến mau và nơi nào đến chậm?
- Bạch Đại Đức cả hai đều bằng
nhau.
- Vậy, tậu Đại Vương, cùng một thế ấy,
người chết ở đây và tái sanh vào cảnh Phạm Thiên không chậm hơn người chết ở
đây và tái sanh ở Kashmir.
- Kính bạch Đại Đức, Ngài ban thêm cho con một
thí dụ khác.
- Tâu Đại Vương, nếu hai con chim đang
bay trên trời và cả hai cùng đáp một lúc. Một con đáp trên ngọn cây cao. Còn
con kia thì đáp trên ngọn cây thấp. Tâu Đại Vương nghĩ thế nào, cái bóng của
con nào rọi xuống đất trước?
- Cả hai cái bóng đều rọi xuống cùng
lúc. Không có cái nào rọi trước cái nào rọi sau. [5]"
***
Vấn đề có thể được nêu lên: "Tìm đâu luôn luôn có minh
châu và tinh trùng sẵn sàng để tiếp nhận thức-tái-sanh?"
Theo Phật Giáo, số chúng sanh vô cùng tận,
vô hạn định, và nơi trú ngụ của chúng sanh cũng vậy. Bào thai cũng không phải
là nơi duy nhất cho sự tái sanh.
Quả địa cầu chỉ là một điểm nhỏ, so với
vũ trụ bao la, không phải là cảnh giới duy nhất có thể trú ngụ. Và con người
cũng không phải là chúng sanh duy nhất. [6]
Vậy, tin rằng luôn luôn có một nơi
thích ứng để tiếp nhận thức tái sanh cũng không có gì quá đáng. Nếu ta tung lên
trời một hòn gạch, hòn gạch sẽ rơi trở xuống, và luôn luôn có một điểm nào trên
mặt đất sẵn sàng tiếp nhận hòn gạch.
Chú thích
[1] Quyển "The Tibetan Book of the
Dead" của tác giả Dr W.T. Evans-Wents, có trình bầy đầy đủ chi tiết
[2] Theo Phật Giáo năng lực vật chất do
bốn yếu tố tạo nên:
a) Kamma (nghiệp), là hành động thiện
hay bất thiện trong quá khứ.
b) Utu, là sự biến đổi vật chất hay
Tejo, nguyên tố lửa, có đặc tánh nóng hay lạnh, trong Tứ Đại.
c) Citta, gồm tâm vương và tâm sở.
d) Ahara, sức dinh dưỡng trong thực vật.
[3] Xem Chương 25
[4] Dr Evans-Wents viết rằng theo kinh
sách Tây Tạng, có một trạng thái chuyển kiếp từ khi chết đến lúc đầu thai. Linh
hồn người chết phải ở trạng thái ấy trong 1, 2, 3, 4, 5, 6 hay 7 tuần lễ, cho đến
49 ngày ("The Tibetan Book of the Dead", trang XLII - XLIII, 58, 160,
165). Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Đức Phật (Xem "A Manual of
Abhidhamma).
[5] "Milinda's Questions", phần
1, tr. 127-128.
[6] Trên dãy ngân hà có lối một triệu hành
tinh trên ấy có sự sống -- "The Nature of the Universe", Fred Hoyle,
tr. 87-89.
Theo: Đức Phật và Phật
Pháp
Việt dịch: Phạm
Kim Khánh
No comments:
Post a Comment